Vẫn còn nghe tiếng vạc

 

 

người dừng lại nín thinh để cho những
phát tiết của người hình thù nên những vệt,
những chấm, những đường, những hư không…
một con ong òa khóc khi làm tổ,
lập tức cả đàn rùng mình cất cánh,
sau những bấn loạn bất thường cứ gọi
là phút kinh cầu, một tòa lâu đài
tráng lệ bày ra giữa cảnh non nước
nghìn năm, không phải là chốn nương thân
của lũ ong, mà là khúc thức của tồn tại
được trưng ra bằng hình ảnh,
 kinh văn đạo Ruộng

 

 

 

tháng sáu nắng bụi, đêm như đang oằn mình giữa nỗi nhọc nhằn

tôi nằm xuống bờ cỏ, nhìn trời, đám sao trên trời cũng nhìn tôi, tôi biết là đám sao trên trời cũng giống như tôi, là cũng chẳng biết chút gì về những bí mật của thế kỷ đang tác động lên cuộc sống của tôi, ngay lúc chiều, khi đám người lạ mặt đột nhiên đến bắt đám trai trẻ mười lăm mười bảy trong làng bảo là đi chống lại những thế lực thù địch, tôi và những người làng ra sức ngăn cản, bọn họ đã quát vào mặt chúng tôi, đây là thuộc về  bí mật của thế kỷ, những lời gào thét thảm thương của cha mẹ đám trẻ cũng giống như những tiếng kêu của con thú  bị thương giữa sa mạc 
bí mật của thế kỷ là gì nhỉ, tôi nhìn trời, đem hết những hiểu biết của mình ra phán đoán, nhưng vẫn cứ thấy mờ mịt về  biến cố ban chiều, những hình ảnh đau xót  ban chiều ám ảnh mãi nghĩ ngợi của tôi

vào khoảng nửa đêm thì tôi vùng dậy để đón tiếp người con gái ấy, nàng từ phía núi Tượng đến, người còn sực nức mùi dạ thảo

hoa đêm  

em đã đi hết thế gian để mang thông điệp thế kỷ đến mọi người, ông là người cuối cùng

nàng nói

qua ánh sao trời, tôi nhìn thấy rõ gương mặt cô gái, nàng đẹp vẻ đẹp ngoại lệ, việc nàng đến với tôi chẳng bất ngờ, vì lúc tối, khi tôi lang thang ra đồng làng, qua ngọn gió chiều hôm nàng đã nhắn gửi tôi biết đêm ấy nàng sẽ đến với tôi, chỉ hơi ngoài dự đoán một chút là nàng đã phải vượt qua rừng núi Tượng mới kịp đến với tôi trong đêm, và tôi lại là người cuối cùng nàng gặp,

em đọc thông điệp đi

tôi nói

nàng liền mở túi hành trang

máu chảy lênh láng lên mặt đất

của thế kỷ này đấy

nàng nói

và bắt đầu đọc thông điệp

 

những vì sao rụng xuống, trần gian bắt đầu sự hiện hữu của những vật thể biết nói có tên là con người, lời nói khởi lên, trùng điệp những ngữ nghĩa, những phản nghĩa, những ẩn nghĩa, những ám dụ, dẫn dụ, chỉ dụ … mặt đất trở nên rối rắm, thấu hiểu và ngộ nhận như cặp song sinh, những đứa con bất trị của ngôn ngữ, bước đi, và những tàn phá, bức bách của tri thức làm bùng vỡ những mô hình của nghĩ mang bao dáng vẻ  mỹ lệ của ngôn từ, những đại tự sự tiếp tục xuất hiện trong cuộc hành trình đi về phía trước mang lại những tột cùng cho hiện hữu con người, hạnh phúc tột cùng, đau khổ tột cùng, sang trọng tột cùng, hèn hạ tột cùng… cho đến cái thế kỷ này thì con người ngộ nhận nhau nhiều hơn, sát hại nhau nhiều hơn,

 

đọc xong thông điệp của thế kỷ, nàng kêu mệt, nằm xuống bờ cỏ
tôi cũng nằm xuống bên nàng

lập tức nàng gối đầu lên cánh tay tôi, và mở banh áo của mình ra

để cho nghĩ ngợi được thoáng đãng
nàng nói

và thiếp đi

tôi bắt đầu nghĩ ngợi về lai lịch của nàng, đúng hơn là nghĩ về truyền thuyết về nàng, truyền thuyết nói rằng một ngày nào đó người con gái của dáng vẻ vô biên sẽ mang thông điệp của thế kỷ đến mọi người, và cuộc sống sẽ chấm dứt khi người con gái ấy đã gặp được người cuối cùng

tôi không thể tin hết vào nội dung truyền thuyết, bỡi bấy giờ nàng vẫn ngủ yên lành trên cánh tay tôi, người vẫn còn sực nức mùi hoa dạ thảo núi Tượng, giấc ngủ của một sinh thể chẳng mang chút dấu vết nào của chết,

tôi nghĩ ngợi một lúc, rồi ôm chặt lấy người nàng, và cũng thiếp đi trong mùi hương trinh khiết tỏa ra từ nơi thân thể của người con gái trinh khiết

tôi không còn nhớ là khi thiếp đi trong niềm dịu dàng thân thiết của một cuộc tình bất chợt tôi đã mơ thấy những gì

chỉ nhớ là tôi đã thức dậy vào lúc hừng đông, và nhìn thấy nàng nằm chết trên cánh tay mình

xin chia tay em, người con gái của dáng vẻ vô biên đã chết như truyền thuyết

tôi nói lời vĩnh biệt

và đưa tay gõ một tiếng lên trời thử có lời giải đáp nào từ phía bí mật của thế kỷ hay không,

***

 

cho đến lúc đó tôi cũng chưa gầy dựng được một cuộc tình, trước cũng có ý định về chuyện này, rồi cuộc xung đột lịch sử lại diễn ra,  làng xóm tôi bất an làm tôi lỡ bước, chiến tranh như thể  trò chơi nguy hiểm làm hỏng hết mọi sự, ngoài đám con gái trong làng vốn là những đứa bạn chí thân thời niên thiếu của tôi hằng ngày đi ra đi vào thấy mặt nhau còn có các cô giáo đồng nghiệp của tôi  hằng ngày gặp nhau ở ngôi trường học ở quận lỵ ấy thì làm sao người đàn ông xấp xỉ tuổi bốn mươi là tôi lại không nghĩ đến một tình yêu nam nữ, nhưng câu chuyện nghìn đời của nhân loại cứ bước vào tôi hôm trước  hôm sau lại bước trở ra,  mùa thu, những đám mây rời rạc buồn trên bầu trời trên đầu, hết thảy đám cây lá trong vườn nhà tôi như đang gục xuống có vẻ chẳng muốn chào đón chút nào thứ tháng năm dòng nhựa trong thân thể chúng như không còn muốn lưu chuyển, và lũ chim, với linh giác về mùa, bản năng của con vật trước sự tùy tiện của tự nhiên, cũng đã vào mùa chết rồi, có vẻ lũ chim hót ít hơn, giữa thứ trời đất như thế tôi biết là trong tôi cũng đang tồn tại một nỗi buồn,  đời tôi vẫn thiếu vắng một cuộc tình, đã buồn mà đêm đến  còn nghe tiếng rên rỉ của con ngỗng lẻ đôi, đêm tôi vẫn nghe thấy những lời thở than, lắng nghe kỹ cứ thấy như có những hạt sạn trong giọng kêu của con vật nuôi, tôi cho đấy là cách khóc bạn tình của con ngỗng, và nhận ra tính chất nghiêm trọng của sự việc, rằng tuyệt đối không thể, và tuyệt đối không có quyền làm mất đi nửa kia của một tình yêu, nhưng đấy lại là câu chuyện của lũ ngỗng nhà tôi, vào một đêm tháng chạp, trời tối như mực, không biết vì lý do vì sao lại có lực lượng chiến tranh phục kích ở khu vườn nhà tôi, một trong hai con ngỗng của nhà tôi  không biết có phải là đi ăn đêm hay không đã đi về phía có người phục kích, và bị bắn chết, để biện minh cho sự chậm trễ hay là  thất bại của tôi trong chuyện tình trường, tôi đã nghĩ ra một thứ sáng thế ký có vẻ hài hước, cũng không hiểu sao bấy giờ tôi lại nghĩ được, rằng ai đó đã rút bớt một cái xương sườn của người nữ đem ráp vào tôi, và phán, tình yêu của ngươi đó, trong những ngày đầu nghe vết thương đau đớn tôi biết là mình đang có một cuộc tình, nhưng khi bộ xương sườn ở hông tôi đã lành, tôi không còn nhớ gì cả, thật ra, bấy giờ tôi chẳng có người phụ nữ nào để nhớ, ở trường học ở quận lỵ ấy, các cô giáo đồng nghiệp của tôi toàn là dân ở phố, tôi có giả dụ có một cô đã yêu tôi, và tôi cưới nàng, ở với tôi đâu được hơn tháng, đêm nghe chó sủa, rồi thằng Lữa con cậu Năm Thực tôi dẫn đồng đội của nó đến gõ cửa nhà tôi khiến nàng sợ đến chết khiếp, những đêm không nghe chó sủa thì nghe lũ côn trùng ngoài bờ rào kêu buồn não nuột, buổi sáng chúng tôi chở nhau bằng xe máy đến trường học, nàng về với tôi và chúng tôi vẫn tiếp tục đi dạy  ở trường học ở quận lỵ ấy, chiều trở về nhà,  nàng đứng xem tôi hì hục rửa hai cái bánh xe máy dính đầy phân bò đã dậm trên con đường vào làng, không thấy nàng nói chi, nhưng tôi đọc được tình yêu nàng dành cho tôi đã bắt đầu xuống cấp, tôi chỉ giả dụ tới đó, và tự hẹn với mình cứ để hết chiến tranh rỗi hẳn tính,

 

***

 

chính  là chú Năm Trữ em ruột cha tôi đã nói với tôi rằng các mối quan hệ quốc tế phức tạp đã dẫn đến tình cảnh phân hóa của một xứ sở nghèo nàn là đất nước tôi, lúc bấy giờ tôi vẫn còn cảm thấy mơ hồ về thứ nguyên nhân đang làm tan rã cấu trúc thiêng liêng của một bầy đàn, nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, một miếng thịt làng bằng một sàn thịt chợ, thứ cấu trúc có thể nhìn thấy qua câu phương ngữ của quê tôi như thể bức tranh của tồn tại,  năm tuổi là tôi  đã bắt đầu mê ăn cỗ làng, mùa xuân ăn cỗ kỳ yên, mùa thu ăn cỗ tế thần ruộng, bấy giờ thì đất nước tôi có miền bắc miền nam, và miền nam lại hình thành hai thực thể chính trị, một là chính quyền quốc gia có người Mỹ  làm đồng minh, và một là lực lượng kháng chiến chống Mỹ, mặt trận giải phóng miền nam, nghe nói là có sự giúp đỡ của những người anh em Liên Xô, Trung Quốc,  ở làng tôi, bấy giờ, đêm con chim vạc không còn thể bay trên bầu trời thư thả buông lời kêu sương, và tự trong thâm tâm những người cày ruộng  thứ ý thức chính trị thô sơ đã bắt đầu trổi dậy, có thể chưa thể nói ra được các giá trị lịch sử, nhưng cũng có thể biết thở dài khi thấy người trong một nước lại thù địch nhau, tôi  cố gắng để hiểu  những nỗi niềm  của xóm làng nơi tôi sinh ra và luôn cảm thấy tình cảnh phân hóa của xứ sở mình có vẻ như là hệ lụy của một thứ lịch sử nào đó, ở miền nam, chính quyền quốc gia là chính quyền chúng tôi đang sống trong đó, còn chính quyền của những người kháng chiến thì  nghe nói là còn trên rừng, rồi vào một sớm tinh sương bỗng có nhiều tiếng súng nổ nơi trụ sở xã sở tại của tôi, mấy chục năm sau cuộc kháng chiến chống thực dân  Pháp, người làng tôi mới nghe thấy tiếng súng, những người kháng chiến từ vùng rừng núi Tượng ở phía nam làng tôi kéo xuống bắn nhau với lính dân vệ canh gác trụ sở xã, đám lính dân vệ đã bị giết chết, và  trụ sở làm việc của chính quyền xã ở ngay trung tâm làng tôi đã bị đánh sập, cuộc hành quân của những người trong mặt trận giải phóng có vẻ chớp nhoáng, sau những tiếng nổ nghe vang lên ở trụ ở xã, làng xóm tôi lại trở lại  vẻ yên tĩnh như mọi ngày, nhưng liền sau đó  lại nghe thấy  có tiếng  súng nổ nữa ở xóm dưới, và tin bác Tám Hổ bị bắn chết được truyền đi khắp làng, những người chứng kiến cảnh tượng ấy đã kể lại  rằng sau khi trụ sở xã của xã sở tại của tôi bị đánh sập, chú Sáu Đạc xã trưởng lập tức xách súng đến nhà bác Tám Hổ, chỉ mặt bác ấy bảo ông là tay sai của  bọn cộng sản ngoại bang đã  dẫn bọn trên núi về đánh phá làng ta, chú Sáu Đạc chỉ nói  thế, rồi rút súng lục bắn liền tám phát  vào đầu bác Tám Hổ, người làng tôi ai cũng biết cho đến lúc ấy bác Tám Hổ chỉ là một người cày ruộng, chất phác và ít lời, tôi nghĩ mãi không hiểu vì sao chú Đạc xã trưởng lại cho rằng bác ấy là người của giải phóng, có một thứ sơ hở nào đó của bác Tám Hổ trong quan hệ xóm làng dẫn đến thù ghét, nhà bác Tám Hổ và nhà chú Đạc xã trưởng là ở sát cạnh nhau ở xóm dưới, hay thứ lý tưởng quốc gia trong chú Sáu Đạc đã thôi thúc chú ấy làm vậy, không hiểu sao bấy giờ tôi cứ nghĩ đến lời kinh đạo Ruộng mơ hồ khó hiều của chú Năm Trữ tôi, con người vẫn lầm lũi bước trong thứ ánh sáng chập choạng của ánh mặt trời đã bị  cướp đi vào hôm đám chủ hèn hạ của những xứ sở  giàu có trên mặt đất họp bàn cách chống lại những giọng nói minh triết của quá khứ bằng cách chia nhau thế giới để trịcái buổi sáng ấy làng tôi như chìm trong cơn địa chấn,

 

***

 

cuốn sử làng tôi có vẻ như đã sang trang, cái trụ sở xã bị những người kháng chiến đánh sập lập tức được  xây dựng lại cùng với đám lô cốt bao quanh, canh gác ở đó không phải chỉ năm ba người lính như trước, mà cả mấy trung đội dân vệ thay nhau túc trực ngày đêm, cùng với đám lô cốt bao quanh trụ ở xã là đám lô cốt vô cùng qui mô được thiết lập trên ngọn núi Đất ở phía đông làng tôi, những cái họng súng từ đám lô cốt trên núi ấy suốt ngày đêm há mồm chờ thốt lên tiếng nói của chiến tranh, người làng tôi mặc nhiên hiểu cuộc sống hòa bình bấy lâu đã chuyển sang cuộc sống có chiến tranh, ngôi làng thân yêu của tôi tự nó như đã chuyển sang trang mới, bất trắc, và buồn bã, không còn có gì là chắc chắn hết, hầu như mọi người đều nghĩ đến sự ly tán, chết chóc, đêm tôi nằm trong gian nhà đã quá xưa cũ nghĩ ngợi suốt về lệnh giới nghiêm từ sáu giờ tối đến sáu giờ sáng chính quyền địa phương đã ban bố ngay sau hôm trụ sở làm việc của xã bị đánh sập, mẹ tôi bắt đầu những ngày nhiều nước mắt,  nghe nói đến bất cứ chuyện gì có liên quan đến thời cuộc là mẹ tôi lại chảy nước mắt, cha tôi không còn đi cày ruộng, chỉ nằm nhà  đọc sách và chưng cất rượu, đêm tôi nằm nghe tiếng chân ông đi từ nhà trên xuống nhà dưới, rồi từ nhà dưới trở lên nhà trên, dường như đã đến lúc cuộc dịch chuyển của con người trong thế giới đã bị thu hẹp lại, có những đêm ông thức giấc, uống trà, rồi không ngủ nữa, cứ ngồi mãi nơi bàn trà cho đến sáng, những tiếng thở dài bật thốt trong đêm như thể tín hiệu của thứ ký ức về một quá khứ đã mắc phải những lầm lỗi nào đó, tôi thường nghĩ về cha tôi thế, cứ thấy nhòe đi trong ký ức tôi những lý thuyết sách vở cao đẹp, thế nào là dân chủ, tự do, thế nào là không còn áp bức, bất công… những thứ ấy như chẳng ăn nhập chi với những thứ đang diễn ra nơi làng xóm tôi, đêm, hết thảy người làng tôi đều phải ở im ở trong nhà, ở bên ngoài, các con đường của làng xóm là dành riêng cho các lực lượng của chiến tranh, như có nghe thấy tiếng chó nhà ai sủa, hay tiếng con chim te te thính hơi người, thì có thể là những người kháng chiến đã từ trên núi Tượng xuống hay là có đám lính bảo an ở quận kéo lên phục kích đâu đó, thứ thời tiết sắp có sấm sét giông bão, không phải của trời, mà của con người đương đại, sau đó thì có thể là có súng nổ trên đồng làng và sáng hôm sau người làng sẽ nhìn thấy trên con đường quan chạy ngang qua làng  có nhiều thi thể của những người trong lực lượng kháng chiến, cũng có thể chỉ là một đêm bình an, lén hé cửa sổ nhìn thử về phía ngọn núi Đất ở phía đông làng thì thấy vút lên bầu trời đêm lằn sáng nhỏ tựa giọt nắng chảy ngược rồi vụt tắt, cách chuyện trò nhau giữa những người lính quốc gia trên mấy cái lô cốt trên núi Đất,

 

***

nếu ở những thời điểm khác thì đêm chẳng qua là lúc không nhìn thấy mặt trời, nhưng bấy giờ, ở làng tôi, ngôi làng cứ như là thứ hạt giống của bao nhiêu thứ hoa quả trời đất trôi dạt  tiếp tục nẩy mầm làm nảy sinh trong tôi không biết bao nhận thức mới mẻ, thì đêm là những trang viết đầy tình tiết, thấy đêm ở làng tôi như những trang viết đầy tình tiết là loại nhận thức bộc phát sau mấy mươi năm  nghĩ ngợi của tôi, ngay cả việc lúc bấy giờ ban ngày tôi đi dạy học ở một trường trung học ở quận lỵ ấy và đêm vẫn trở về ngôi làng của tôi đêm đến là toàn bộ cư dân của làng  nằm trong tầm ảnh hưởng của một hệ thống chính quyền hoàn toàn khác với hệ thống chính quyền lúc ban ngày, thì cũng là một thứ trang viết đầy tình tiết về cuộc đời tôi, đêm đến, làng tôi như được choàng lên một tấm áo choàng vĩ đại, thiết kế trên nó là toàn bộ dữ liệu, không phải của một nhà may mặc, mà hệ quả khôn lường của tòan bộ hệ thống trí khôn và kinh nghiệm nhân loại về tập hợp bầy đàn, về nuôi dưỡng niềm tin hay lòng thù hận, về làm sao tiêu diệt cho được nhiều nhất kẻ thù, hay về cách che dấu sự giả dối hay nỗi sợ hãi, tấm áo choàng vĩ đại, hay toàn bộ những động thái, những biến cố, những sự cố, có vẻ đặc biệt nhất trong lịch sử đất nước tôi, vào lúc ấy, đêm, lại khoác lên cuộc sống của toàn bộ cư dân của làng, đêm, tôi nằm trong ngôi nhà đã quá cổ xưa do ông bà tôi để lại để nghĩ ngợi về tất cả, ngôi làng thân yêu của tôi cứ từng lúc thay đổi bộ dạng và hồn cốt trong nhận thức của tôi,

 

***

nhưng người là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, chỉ muốn nghe người nói có phải đất đai đang rã ra, những hòn đất thấm máu, đừng đổ thừa cho bất kỳ lý do lịch sử nào, nghìn triệu triệu năm tổ tiên chảy máu trong nghĩ ngợi mới hay rằng đất đai là chốn phát tích những vẻ sáng đẹp [đất đai là chốn phát tích văn minh lúa nước, cuộc cách mạng lạ lùng nhất cứu sống loài giống con người] tôi thấy như có ai đang bước qua nỗi đoạn trường, khóc, và nói những lời giá buốt, nghìn triệu triệu năm tổ tiên chảy máu trong nghĩ ngợi mới hay rằng đất đai là chốn phồn hoa tráng lệ, con người cư trú trên đó, con người gieo trồng trên đó, và chết ở trên đó, như vẫn còn nghe thấy tiếng thét vui sướng của tổ tiên trong trí nhớ bầy đàn,

 

***

 về chuyện tan rã bầy đàn cứ giống như một trò chơi định mệnh, bỗng sụp đổ hết những thành quách, cung vua, phủ chúa, việc chấm dứt một triều đại có vẻ giống việc ra khỏi một cơn mơ, cắt nghĩa thế nào nếu nói đây không phải trò chơi bí ẩn khi toàn bộ văn hiến nghìn năm của một giống nòi đã không còn nhìn thấy trong những cách thức đi đứng cười nói chuyện trò thứ hệ hình thiêng liêng trong cuộc tương giao giữa con người với con người đã không còn nhìn thấy trong giấy bút của những kẻ vẫn nhân danh những nhà chép sử đã không còn nhìn thấy trong mối cảm hoài khi con người đứng trước núi non sông hồ nơi mình chào đời và lớn lên thành con vật biết tư duy và đứng trước cái lai lịch đằng đẵng những tháng năm của loài giống sao lại không thấy thốt ra những lời chân thật

 

vào chặp sẩm tối của một ngày tháng sáu vẫn bất an ấy bỗng nghe vang lên bên nhà chú Năm Trữ tôi cái giọng hát, hay đọc nhỉ, ấm, và hơi đục, như thể thứ âm thanh ấy đang xuyên qua một vùng nước tù hãm, lúc đầu cả nhà tôi cứ tưởng thầy trụ trì ngôi chùa Phật trong làng đang tụng niệm cúng cầu an cho nhà chú tôi, nhưng cha tôi đã hối, thằng Đàn hãy sang bên đó đi đang có chuyện gì bên nhà chú con đó, tôi ba chân bốn cẳng chạy sang nhà chú Năm Trữ tôi, và quả như cha tôi đoán, chú tôi đang ngân nga đoạn văn chép trên theo kiểu tụng đọc của nhà chùa, tôi đang nói về chuyện sáng lập tôn giáo của chú Năm Trữ tôi, ông bà nội tôi đã sinh bốn người con trai, tứ trụ, nhưng hai người chú giữa cha tôi [anh cả] và chú Năm Trữ tôi đã mất hồi còn nhỏ, chú Năm Trữ tôi được ông bà nội tôi cho ăn học nhiều hơn cha tôi, ông hiểu biết cả đông tây kim cổ, lấy vợ được một năm, chưa sinh con, thì vợ mất, như thế là con cũng đã hiểu được lạc thú trần gian, quãng đời còn lại con chỉ muốn dùng cho việc trao dồi sự hiểu biết, chú tôi thưa nói với ông bà nội tôi về cái quyết định hơi đặc biệt của một chàng trai trẻ ở tuổi ba mươi, vậy đấy, khi ông bà nội tôi mất, bộ tộc họ Trần của tôi chỉ còn có mỗi cha tôi và chú tôi, rồi trong lúc cha tôi theo cuộc gia thất của người đời, chú tôi vẫn cứ đăm đăm vào sách vở, cho đến cái buổi sẩm tối một ngày tháng sáu vẫn bất an ấy, bộ tộc họ Trần của tôi mới vỡ ra chú tôi lại là một nhà sáng lập tôn giáo, không phải kinh văn đâu, chỉ là gắng nói ra những gì nghĩ ngợi được của một người đang sống trên đất đai, thì chẳng phải nền văn minh đầu tiên của loài giống con người chúng ta là về đất đai đó sao, chú tôi nói với mọi người, đạo Ruộng, buổi ấy, người làng gọi tôn giáo của chú tôi là  đạo Ruộng, dường cả phía những người quốc gia lẫn phía những người trong lực lượng kháng chiến đều không quan tâm đến việc một người đàn ông đến tuổi sáu mươi cứ vào sẩm tối lại ngồi lên giường tụng đọc những gì đã nghĩ được về cuộc sống, bấy giờ, các thực thể chính trị không coi đạo Ruộng của chú tôi là mâu thuẫn với bất cứ thứ ý thức hệ nào, có vẻ như kinh văn  đạo Ruộng của chú ấy là thứ nhật ký mơ mòng, khó hiểu, chép về hồn cốt, về nỗi tai ương của làng, hay là ông muốn mô tả hiện thực theo cách của ông… ruộng và người, hai thứ đó chảy đi trong cùng một con sông nước trắng lã, thứ trinh bạch thấu tận trời [trích kinh văn đạo Ruộng] tôn giáo của chú tôi như những tiếng kêu thảng thốt của một loài chim lạ, cho nên, nếu muốn nói đó là tôn giáo, thì đó là tôn giáo của những vị thần thất sủng,

 

***

 

buổi ấy người làng tôi vẫn đi cày ruộng để có chén cơm ăn, chưa đủ no, nhưng đêm nằm nghe con dế kêu trong giấc ngủ, thấy yêu mảnh đất chôn nhau cắt rốn ghê gớm, rồi mùa hè, những cái mùa hè nóng chết người, lũ dế, đêm kêu to hơn, đồng làng khô khốc, lúa chết, buổi sớm mai thấy mặt trời lên, lẽ ra phải mừng, có thứ sinh vật nào là có thể sống  mà không có ánh mặt  trời, vậy mà buổi sớm mai thấy mặt trời lên lại thấy lo, cứ mong sao cái quầng lửa ác nghiệt đó đi cho thật mau, ngày nào  cái quầng lửa ấy cũng ngang qua bầu trời trên đầu, theo con bò cày trên ruộng, ngước mắt ngó chừng, cái quầng lửa trên đầu như thể chẳng hiểu chút gì về những  nỗi niềm của những con người nhỏ bé, cái quầng lửa có vẻ như cứ bước đi chầm chậm, theo con bò trên ruộng, ngước mắt ngó thử, thấy cái quầng lửa hình  như cứ đứng im một chỗ, đâu dám nghĩ gì khác hơn, chỉ thấy hơi tủi thân, chốc lát, rồi cũng chẳng thấy có gì đọng lại trong lòng, bỡi không có mặt trời thì cũng chẳng có gì hết, chẳng có con bò, chẳng có miếng ruộng trên đồng làng, cũng chẳng có chuyện con người ngước mắt ngó thử mặt trời, rồi đêm đến, mọi người như chẳng còn ai nghĩ đến chuyện mặt trời nữa, đêm đến, ai nấy đều ngồi ở trong nhà  canh tiếng chó sủa, cứ ngồi im trong nhà nghe thử có chó nhà ai sủa hay không, buổi ấy, ở làng tôi, muốn biết đêm các lực lượng chiến tranh có hoạt động hay không thì lắng nghe tiếng chó sủa,

 

***

 

thứ quá khứ ấy của cha tôi đã quá cũ, nếu ông có đem kể cho ai nghe chắc kẻ  đó sẽ không nhịn được cười: làm sao mà bác [hay chú, hay ông anh] lại còn giữ được trong trí nhớ những chuyện như thế, những chuyện, về phương diện xã hội học không còn có chút tác động nào đối với đời sống cộng đồng, và về phương diện lịch sử cũng có thể nói nó là sử liệu, một chút thôi, nhưng sử chứ đâu phải văn chương lại đi chép những chuyện như thế, nhưng tất cả những chuyện ấy bỗng nhiên trở lại trong tâm trí cha tôi, có vẻ như ông thường nghĩ về nó, thằng Đàn mày có nghĩ là người làng ta còn nhớ  những chuyện đó, nhiều lần cha tôi nói với tôi thế, tôi đã được nghe kể về những gì cha tôi đã làm thuở ấy, thuở tôi chưa sinh, ký ức của một người như thể kho chứa hình ảnh có vẻ lúc nào thì thứ nào sẽ hiện ra, những khoảnh đời xưa cũ ấy khi nhớ lại có thể làm cho người ta buồn hơn, hay vui hơn, nó làm cho thứ tâm trạng hiện trạng trở nên khắc họa hơn, thành ra tiếng thở dài, hay nụ cười vui, với cha tôi có lẽ đã thành ra nỗi lo lắng, những câu chuyện quá khứ ấy có vẻ như đang đánh thức khả năng tự phản của cha tôi, có vẻ như cứ sáng ra thì cha tôi thấy mình đã có lỗi với cuộc đời, làm sao thầy lý lại đi tát tai thầy hương đúng vào buổi sáng ngày đầu xuân, lũ trẻ nít làng tôi thuở ấy đâu biết sự nghịch ngợm của bọn chúng đã dẫn đến sự kiện nghiêm trọng mấy mươi năm sau vẫn còn khuấy động lương tri của một người, nhưng hương kiểm của làng để lũ trẻ nít trong làng đốt pháo suýt làm cháy đình làng thì lý trưởng của làng không thể không nổi giận, đúng vào sáng mồng một  tết, trong lúc dân làng tụ tập trước đình làng để vui tết, cha tôi đã tát tai người cộng sự của mình và quát mắng các bậc cha mẹ không biết nuôi dạy con cái, cái đám người Pháp thực dân thuở ấy đến cai trị đất nước ông khiến cho ông biết con đường cái quan là gì, biết cái đèn điện là gì, biết ngoài việc bận áo dài đội khăn đóng người ta còn có thể bận đồ Âu và đội mũ, ngoài tiếng mẹ đẻ, cha mẹ ông còn cho ông đi học tiếng của đám người ấy, những khoảnh ấy là vui, chỉ buồn nỗi đám người thực dân thấy ông có chữ lại cử ông làm lý trưởng của làng, kẻ đứng đầu dân làng, mang guốc mộc, đội khăn đóng đen, mặc áo dài đen, ngày ngày đi ra đi vào đình làng, dưới ông còn có những hương kiểm, hương mục, hương lễ, và dưới cùng là hương dịch, dưới ông là các vị lo về an ninh, về lễ lạt và hộ tịch hộ khẩu của làng, ngũ hương, ông bị cuốn vào guồng máy ngũ hương ấy trong hai năm, hai năm hoạn lộ, thưa thầy lý, ở đồng làng mình con vẫn cố sức ngăn cản nhưng thằng cha ấy vẫn cứ tiếp tục lấn bờ sang ruộng của con, thưa thầy lý, con vợ của con nó đi ngoại tình con bắt được tại trận, thưa thầy lý, nhà con nghèo quá, muốn xin giảm bớt thuế thân không biết có được không, dù dưới ông đã có những người lo về các vấn đề an sinh xã hội, nhưng ra đình làng trước hết người ta vẫn muốn gặp ông, ba mươi tuổi ông đã đứng đầu đám hương chức của làng, bỗng trở thành bậc cha mẹ của dân, phụ mẫu chi dân, văn hóa trị nước buổi ấy, nhưng vì sao đến lúc ấy niềm vinh quang ấy lại trở thành nỗi lo lắng của cha tôi thì đó là chuyện của những nhà viết sử mặc dù đối với tôi hết thảy sử văn là những thứ không có gì chắc chắn hết,
 

***

tôi muốn viết về mùa đông ấy để tặng riêng cho người làng tôi, cứ muốn trích ra từ cái cảnh sống luôn  bị cảnh chiến tranh đe dọa một chút vẻ đẹp tổ tiên người làng tôi đã bỏ công sức tạo dựng tự những trăm năm trước, mưa, con đường vào làng nằm dài ở trong mưa trông cứ như rõ hơn mọi ngày, con đường cứ như một cuộc trường chinh vĩ đại, thì chẳng phải bao nhiêu triều đại đã sụp đổ nhưng người làng tôi vẫn cứ nối tiếp nhau bước đi trên đó, nó, bũn đất trên con đường đó đã chạm vào bàn chân bao thế hệ người làng, những trăm năm lối vào chốn cư trú của một bầy đàn, vào một ngày mưa, từ trường dạy học trở về, tôi cho xe máy chạy chầm chậm trên con đường vào làng, buổi trưa, vẫn rả rích mưa, mùa đông ở quê tôi vẫn cái kiểu mưa nhỏ hạt kéo dài từ giờ này sang giờ khác, dai dẳng, chì chiết, có vẻ như tạo hóa ở đây chẳng có chi phải vội vã trong việc làm ra mưa nắng, lúa đông xuân trên các thửa ruộng hai bên đường có vẻ hả hê với thứ mưa chì chiết, bấy giờ là tháng tám, lúa đang trỗ đòng, hương lúa lẫn trong hơi mưa như thể đang đánh thức bản thể một người sinh ra và lớn lên giữa những thứ như lúc nào cũng thốt ra thứ hương vị riêng, tôi xuống xe để nhìn ngắm những thứ quen thân cứ [rất] lo sợ rồi ra có thể xảy cuộc đọ súng ở đây vào một lúc nào đó không ai lường được, và tôi sẽ không còn được nhìn thấy chúng nữa, giữa lúc tôi đang có những nghĩ ngợi tệ hại thế thì mưa bỗng trở nên nặng hạt, những hạt mưa to như những hòn bi bắt đầu va vào mắt mũi tôi đau điếng, chiếc áo đi mưa bằng ni lông trên người tôi bắt đầu bó chặt lấy thân thể tôi, cái lạnh như cứ tăng lên, và tôi không còn ngăn được cơn run lập cập, chính là vào lúc ấy, chú Hai Ngộ, người đàn ông hiền lành ở làng tôi, đã cứu tôi thoát khỏi cái lạnh và thứ cảm thức buồn bã về chiến tranh, nổi lên giữa màu xanh của lúa và màu mưa trắng nã là chú Hai Ngộ mặc áo tơi mưa chằm bằng lá núi đang bước đi trên đồng làng, ở làng tôi, chỉ chú Hai Ngộ là còn cất giữ được cái áo tơi  mưa chằm bằng lá núi, loại lá lấy ở dãy núi phía nam làng, một trong những di sản văn hóa của miền đất quê tôi, cái áo tơi mưa khi mặc vào thì ta cứ giống một con chim đại bàng, không phải đang bay, mà đang bước, chú Hai Ngộ mang áo tơi mưa chằm lá núi, đội nón lá cũng chằm bằng lá núi, đang bước giữa ruộng đồng, bỗng một người cày ruộng hiển hiện thành cuộc dịch chuyển giữa tác động của nắng mưa, không hề thấy có chút cảm thấy trở ngại, lo ngại, hay lo sợ, cái cách thư thả bước đi giữa mưa gió như thể tín hiệu về một cuộc chung đụng vững chãi, ở làng tôi cày ruộng là cuộc chung đụng mang tính khải huyền giữa con người và thiên nhiên, cái tượng đài nghìn năm vẫn cứ còn chỗ trong văn hiến bầy đàn bỗng hiện ra trên cánh đồng làng tôi từng thông thuộc từng bờ mẫu khiến tôi trút bỏ được những lo âu, buổi trưa tháng tám, tôi cứ đứng đó, giữa mưa, nhìn ngắm, nghĩ ngợi, trên cánh đồng làng chú Hai Ngộ lại bước đi, đám cò trắng đang đậu ở một ruộng lúa gần đó túa bay lên như thể  một  thứ bông hoa trinh tiết nở rộ trên đầu một người mà cả cách ăn bận, cả cách đi đứng,  như thể tín hiệu của niềm vui vĩnh cửu,  

 

***

 

với cha tôi, bấy giờ, chẳng còn có niềm vui vĩnh cửu, ông thức với hiện tại trong thứ tâm thức có thể chốc nữa ông không còn hiện hữu, cái sẽ là dường không còn chỗ trong nghĩ ngợi của cha tôi, và ngay cái hiện là cũng chỉ còn là giả định, ông giả định rằng mình đang nán lại giữa cái cấu trúc thiêng liêng của làng, dường cứ nghe thấy giọng nói của tiền nhân cất lên trong buổi chiều hôm giữa tiếng chiu chít của lũ gà trong vườn và tiếng con nghé con lạc mẹ rống ngoài đồng làng, hãy ngồi xuống đây, giọng nói ấm và chắc, có ai đó cứ nói mãi trong trí nhớ bất tận của cha tôi, sự trụ lại ngày ấy giữa những sơ khai, hỗn loạn, cuộc chung đụng có tính cách định mệnh giữa con người và những con vật không biết tư duy như thứ niềm cảm hứng dài lâu, và giờ đây cha tôi chỉ còn nán lại trên thứ niềm vui vĩnh cửu ấy, cũng đã quá nửa đêm, tôi nghe cha tôi thức dậy đi xuống nhà bếp, không còn nghe thấy tiếng kêu của con te te thính hơi người trên đồng làng, có nghĩa không có bất cứ hoạt động nào trong đêm của những lực lượng chiến tranh, và mẹ tôi thì đã yên giấc, cha tôi bắt đầu đốt lửa lò chưng cất, cửa ngõ đã được đóng kín hết từ chặp tối nên chẳng có chút ánh sáng nào lọt ra bên ngoài, tất cả đều đã sẵn sàng, nồi cơm ủ đã lên men, ống dẫn hơi, và thùng hứng, cứ  mỗi lần chưng cất xong, cha tôi lại chuẩn bị mọi thứ cho lần chưng cất tiếp theo, đã nghe thấy cơm rượu reo lên ở trong nồi, thứ âm thanh kỳ bí ấy vẫn luôn quyến rủ cha tôi [thằng Đàn mày có nghĩ là đang có một cuộc sống ở trong ấy, cha tôi từng nói với tôi về nồi cơm rượu, thứ cơm ủ lên men ấy tự nó chuyển từ trạng thái cơm sang rượu] bấy giờ ở trong nhà dường chỉ còn nghe thấy mỗi thứ âm thanh ấy, tôi nằm giữa cảnh tượng  tuyệt đẹp mà bi thương, một ngọn lửa cất lên giữa sự tĩnh lặng hiếm hoi [đêm ở làng tôi  buổi ấy mà không nghe có tiếng chân chạy ngoài đường làng, hay tiếng lũ te te kêu váng trên bầu trời đồng làng, hay tiếng pháo đèn  xì xụp trên đỉnh ngọn núi ở phía đông làng… thì là chuyện hiếm]  màu lửa và màu đêm vốn là cuộc hòa âm chảy suốt thời chưa có sử, phải, tiền sử nó là nguồn lực, cái nôi, nơi chốn khởi lên những mai sau, cho nên, dù có bị khuôn lại bỡi sự bất đắc dĩ nào đó của con người đương đại, thì nó, màu lửa và màu đêm vẫn cứ thuộc về cấu trúc thiêng liêng của làng, cái cấu trúc như thể chẳng chút suy suyễn trong tâm thức tôi, kỳ yên của làng, cúng cầu an cho làng ở đình làng vào mỗi tháng ba mỗi năm, kỳ yên của làng thì lũ trẻ bọn tôi ngồi riêng một mâm, thứ lòng bò xáo chuối cây ngon đến nỗi không chịu rời khỏi trí nhớ tôi, chỉ mỗi chuyện kỳ yên của làng mà cả làng đã ngồi lại với nhau, dưới gầm trời chung, có mặt trời trên đầu, có ngọn gió núi còn hơi lạnh từ núi Tượng thổi lại, cứ thấy như thể anh em một nhà, cái cấu trúc làm cho người trong làng như thể những trái bầu trái bí cùng trên một giàn, rồi tại vì đâu làng lại có lính quốc gia và lính giải phóng, những thực thể lịch sử như thế lại nổi lên, chém giết nhau ngay ở trong làng, có một khúc sử như thế, lũ con trai làng tôi đứa đi lính quốc gia, đứa đi lính giải phóng,

 

***

 

tôi quên nói là sau cuộc đụng độ giữa lính dân vệ xã và lính giải phóng, ngoài đám lô cốt được thiết lập quanh trụ sở xã mới xây lại và ở hòn Đất phía đông làng tôi, một đồn lính Đại Hàn đã được dựng lên ở bờ con sông Tượng dưới chân dãy núi phía nam làng tôi, lần đầu tiên trong lịch sử của làng, người làng tôi nhìn thấy những người lính ngoại quốc đặt chân lên quê hương xứ sở của mình, việc cái đồn lính Đại Hàn bỗng mọc lên ở bờ con sông Tượng đối với người làng tôi cũng quan trọng ngang với việc bỗng thấy sao chổi xuất hiện ở phương đông vào một sớm tinh sương, đã đến lúc phải xảy vậy, nó là thời trời, đấy là cách giải thích của chú Năm Trử, em ruột của cha tôi [theo kiểu triết học lịch sử ấy mà]  còn bác Bảy Bính thì bảo đấy là bọn lính đánh thuê, ông nói với mọi người, rằng, kẻ làm thuê bao giờ cũng muốn được lòng chủ, cho nên đám lính Đại Hàn đánh thuê ấy là còn nguy hiểm hơn người Mỹ, lúc bấy giờ, ở tỉnh tôi, đơn vị lính Mỹ tác chiến đóng quân ở thành phố biển Thi Nại, thành phố tỉnh lỵ tỉnh sở tại của tôi cách làng tôi gần ba mươi cây số, hằng ngày người làng tôi vẫn nhìn thấy những chiếc xe sơn màu xám đen chở ắp lính Mỹ chạy trên con đường quan ngang qua làng, lúc từ phía biển về hướng Tây Nguyên, lúc  ngược lại, vào những năm tháng cha tôi giam mình vào việc chưng cất rượu thì chưa thấy có người lính Mỹ nào đặt chân lên quê hương tôi, lịch sử chiến tranh như có những nét kiêu sa của nó, là tôi đang muốn nói đến vẻ hào hoa đột xuất của nó, cái đồn lính Đại Hàn chỗ bờ sông Tượng  giống như bỗng có ai đó gánh đất đổ thành đống to trên đường đi, khi thấy cái đồn bót qui mô dựng lên chốn ấy người làng tôi ai cũng nghĩ là hai bên sắp có đánh lớn, cái đồn lính Đại Hàn là nằm ngay trên đường đi của những người kháng chiến trên núi Tượng, sau cuộc tấn công trụ sở xã sở tại của tôi, những người kháng chiến trên núi Tượng có thể vì cách dụng binh ẩn mật sao đó, hay để tỏ ra cao thượng một chút với đối phương, ai mà biết, đã không mở cuộc tấn công qui mô nào nữa, ngay cả việc phá bỏ cái đồn lính Đại Hàn nằm trên đường đi của mình, tôi nói có chút hào hoa trong cuộc giết chóc nhau là vậy, cuộc bể dâu của người làng tôi lúc bấy giờ có thể nói gọn lại thế này, ban ngày người làng tôi đến trụ sở xã sở tại để làm giấy khai sinh cho con, đóng thuế điền thổ, xin giấy phép đi làm ăn xa, có nghĩa là làm tất cả những việc thuộc về một công dân của chính quyền quốc gia, rồi đêm đến thì nghe những người kháng chiến trên núi xuống nói về cách mạng dân tộc,

 

***

 

chú Năm Trử tôi không hề phản đối cũng không hề nói chấp nhận việc người làng gọi tôn giáo do ông sáng lập là đạo Ruộng, làng bỗng nghe thấy những lời an ủi, phân trần  của một người từng gắn bó với  từng dấu chân  bò  trên con đường vào làng, bỗng nghe thấy vang lên giữa buổi rối rắm loạn lạc những tiếng nói lạ lùng nhưng lại làm cho con người bớt đi niềm sợ hãi, chú Năm Trữ tôi, người được coi là kẻ  nhiều chữ nghĩa nhất làng, trở nên quan trọng đối với người làng tôi, ông đạo Ruộng, cái cách gọi thân thiết như thể bảo rằng con người ấy có thể tìm lại sự bình an cho làng, cứ đọc đi đọc lại điều mình nghĩ được, lâu thành sáng tỏ, ông nói với người làng về cách hành đạo của ông, hay là chú tôi đang đi tìm những góc khuất của thế giới… phương nam có loài hoa lạ, người làng phát hiện ra hoa chỉ nở vào lúc trong làng có người chết, là hoa buồn, người ta đặt tên là hoa nở giờ, ý nói hoa nở đúng vào lúc trong làng có người vĩnh viễn từ giã cõi đời, chuyện được truyền lại cho đời sau, nhưng lại được hiểu theo cách khác, những trăm năm sau  người ta đã dùng hoa nở giờ trong các cuộc lễ lên ngôi vua,  hay lễ mừng thọ những kẻ quyền quí… [trích kinh văn đạo Ruộng] kinh văn của đạo của  chú thì ngắn nhưng làm rõ được nghìn năm, xem xong đoạn trên, cha tôi rỉ tai chú ấy,

 

***

 

nghe chó nhà chú Hai Ngộ sủa, chặp sau thì có tiếng gõ cửa nhà tôi, cách mạng xuống tới rồi đấy, tôi nghe mẹ tôi thì thầm với cha tôi, cách mạng với quốc gia là những từ người làng tôi dùng để nói về hai thực thể lịch sử đang hiện diện trên xứ sở tôi buổi ấy, như mọi lần, tôi đi thắp đèn, và ngồi chờ, cô có khỏe không cô Hai, có giọng nói rất trẻ vọng vào nhà khi mẹ tôi vừa hé mở cánh cửa, tôi nhận ra ngay tiếng thằng Lữa con cậu Ba Thực tôi, ngoại tôi chỉ sinh hai người con, mẹ tôi và cậu Ba Thực, và cậu Ba Thực chỉ sinh mỗi thằng Lữa, thằng em con cậu tôi lên núi theo kháng chiến tự những ngày đầu tiên những người kháng chiến xuất hiện ở làng tôi, cô Hai cho cháu gửi lời thăm dượng Hai, khi đã ngồi vào chiếc giường kê chỗ nhà cầu, thằng Lữa vừa cười vừa nói, bỡi lần nào thằng em con cậu tôi vào nhà cũng nghe mẹ tôi nói là cha tôi đang đau nằm ở nhà sau [do chẳng biết chuyện gì để nói nên đêm có cách mạng vào nhà là cha tôi lại tránh gặp mặt] dượng của chú giờ tuổi cao nên hay đau ốm lắm, lần này tôi cũng phải nói đỡ cho cha tôi, em biết chớ, anh Ba cũng còn đi dạy ở chỗ đó chớ, thằng Lữa tiếp lời tôi, vẫn rặt cái giọng ruộng như hồi nó chưa lên núi, tôi đứng tựa vách để trò chuyện, cây đèn dầu lửa nhỏ ngọn để ở trên bàn nước, thằng Lữa ngồi trên chiếc giường kê sát bàn nước, cây AK thì nó để trên vế nó, mẹ tôi vẫn ngồi mân mê tóc đứa cháu yêu, con ăn gì chưa, mẹ tôi hỏi, giọng run run như sắp khóc, con ăn rồi chớ, thằng Lữa nói, nhưng đến bao giờ thì con mới có thể giữa ban ngày ban mặt đàng hoàng trở về làng xóm mình, mẹ tôi hỏi, chừng nào đuổi xong giặc Mỹ và đánh đổ xong ngụy quyền Sài Gòn, thằng Lữa nói, rồi sau đó thì sao nữa… mẹ tôi nghẹn ngào, sau đó thì làng xóm mình xây dựng xã hội chủ nghĩa, thằng Lữa nói, nhưng xã hội chủ nghĩa là sao hỡ cháu, mẹ tôi lại nói, con cũng chỉ biết đến đó cô ạ, thằng Lữa nói, đây là do ngôn ngữ kể chuyện nó làm cho sự việc chậm lại, và mất đi vẻ căng thẳng, sự thật, mọi thứ diễn tiến rất nhanh, bỡi việc, đêm, đúng ra không phải thằng Lữa con cậu Ba Thực tôi vào nhà, mà là lính giải phóng vào nhà, có thể bị phía quốc gia phát hiện, súng sẽ nổ, và có thể xảy chết chóc, cho nên mẹ tôi đã lập tức đóng kín cửa khi thằng Lữa em tôi đã bước vào nhà, không có chút ánh sáng nào lọt ra ngoài, màu tối của đêm đang bao phủ khu vườn nhà tôi, tháng ba, vẫn cứ nghe tiếng ếch nhái ra rả trên cánh đồng làng lúa trì đang đứng trên thứ đất ruộng khô khốc, chúng tôi nói rất nhỏ chỉ để đủ cho nhau nghe, sau khi thăm hỏi vắn tắc về những người trong nhà tôi, và trả lời những thắc mắc của mẹ tôi, thằng Lữa lấy tiền từ trong túi ra đưa cho mẹ tôi, cách mạng nhờ cô mua giùm lương thực, chuyến sau con sẽ xuống lấy, chuyến sau là vào ngày nào tháng nào thằng Lữa cũng chưa biết, mẹ tôi cầm lấy tiền, và lau nước mắt, có nhiều tiếng chân ngoài đường, tôi biết đấy  là đồng đội của thằng Lữa, nhứt thiết là con không được về nhà đó, mẹ tôi lại căn dặn đứa cháu yêu như những lần gặp trước, nhà câu Ba Thực tôi ở xóm dưới, nhưng dường như từ ngày lên núi đến lúc ấy thằng Lữa chưa về nhà lần nào, bỡi lần này thì nó cũng nhắn nhe  như những lần trước gặp mẹ tôi, cô Hai nói giùm với  cha mẹ của con là con vẫn bình an,

 

***

 

tôi cũng không hiểu sao đến lúc ấy thì mọi thứ trong làng lại diễn  ra theo chiều hướng ấy, chú Sáu Đạc trước đâu có thế, nhưng từ ngày nắm cái xã trưởng xã sở tại thì như lúc nào chú ấy cũng đang trên lưng ngựa, chỉ huy cuộc hành binh, đi giữa sa trường, địch và ta, một còn một mất, ngôi làng tôi bỗng trở nên một nơi mà một số người làng trước đó chưa thể, hay không thể, hay không muốn cho người khác thấy mình là ai, và giờ đây đã đến lúc không còn phải dấu diếm điều chi, cũng chỉ năm ba người, nhưng bọn họ đã làm cho cuộc sống làng xóm  nóng lên theo kiểu bất an, bỗng bác Tám Bảng tuyên bố đứa nào chống lại cung cách làm ăn của bác sẽ chết [cách làm ăn lâu nay của bác ấy là mua thuốc lá non rồi mua lúa non, tức đưa tiền trước với giá rẻ mạt khi người nông dân mới bắt đầu trông cây thuốc lá hay trồng cây lúa] bỗng bác Bảy Bính nói với người làng rằng người con trai cả của bác ấy là giặc, giờ thì thằng Ngạc con tôi nó đi theo thằng Mỹ để chống lại người làng mình, ngày chủ nhật, tôi không đi dạy, buổi sớm mai vẫn ăn cháo như thường lệ, nhưng mẹ tôi bảo bữa nay đằng quán thím Ba Quýnh hết đường, thím Ba Quýnh vừa làm ruộng, vừa bán các thứ đường bột xì dầu nước mắm ở các buổi chợ làng và ở cái gian quán nhỏ tại nhà, vừa buôn bán thực phẩm với đám lính Đại Hàn chỗ đồn lính trên bờ sông Tượng, coi bộ con mẹ Ba Quỳnh mấy bữa nay đang kẹt vốn sao đấy, mẹ tôi giải thích, tôi bưng chén cháo trắng ăn với muối rang và như đang nhìn thấy hình thù một ngày bất an, nó đương là thằng cường quốc mạnh nhất thế giới đó, là bác Bảy Bính nói về người Mỹ đang có mặt ở miền nam đất nước tôi, những người Mỹ mà con trai cả bác ấy, anh Hai Ngạc, đại úy chỉ huy trưởng lực lượng quân sự quận sở tại, gọi là đồng minh lớn nhất của chúng ta, bác Bảy Bính vừa tới sân nhà tôi đã oang oang thời sự, bác ấy có vẻ thích chuyện trò với cha con tôi, ở làng mình anh là một, anh Năm Trữ là hai, và cháu Đàn nữa, là những người có chữ, bác ấy lại nhắc lại câu bác thường nói với cha con tôi, gọi là chuyện trò, thực ra, lúc nào cha con tôi cũng chỉ ngồi nghe bác ấy nói, mà bác Bảy Bính cũng thích cái cảnh từ đầu chí cuối chỉ bác ấy nói, chẳng biết cha tôi có lắng nghe hay không, chứ tôi thì thật sự rất lắng nghe, trong cái cách nghĩ ngợi về thế giới của một người rất bình thường như bác Bảy Bính lại làm sáng ra trong tôi nhiều thứ, thanh niên là rường cột của quốc gia, nhưng là quốc gia nào, anh Cửu Cứ có còn nhớ đám thanh niên cứu quốc chúng ta thời chín năm chống Pháp hay không, bác Bảy Bính bỗng gọi cha tôi là anh Cửu Cứ, tên cha tôi là Cứ, Trần Cứ, bấy giờ bộ tộc họ Trần tôi gòm có gia đình cha con tôi, gia đình anh Hai Hợp anh trai tôi, và gia đình chú Năm Trử tôi, tất cả  chen chúc nhau trên khoảnh vườn ông bà nội tôi để lại, Cửu là hàm cửu phẩm nhà nước bảo hộ Pháp ban tặng cha tôi lúc ông làm lý trưởng của làng, thôi, cứ gọi là Cứ đi cho tiện, anh Bảy, cha tôi đã chen vào, nói, vẻ không vui mấy, nếu không nói là đã để lộ nỗi lo lắng, câu chuyện bác Bảy Bính đang nói là hồi ức về cái quá khứ vẻ vang của bác ấy, bác Bảy Bính là người hút thuốc lá to nhất làng, hút to, chứ không nghiện, khi cha tôi chen vào nói thì bác ấy lấy thuốc lá ra vấn, cách vấn  thuốc của bác ấy là lấy lá thuốc vấn lấy lá thuốc, khi điếu thuốc to tổ bố được đốt cháy đưa lên môi thường là lúc bác ấy bước vào cao trào của câu chuyện, ở đây là chuyện đoàn thể thanh niên cứu quốc thời kháng chiến chống Pháp, chỉ là súng đẽo bằng gỗ lồng mức, súng giả, nhưng khi đã đứng vào hàng quân của làng, chúng ta cứ hướng về phía trước mà bước, bác Bảy Bính đang nói, rất hào hứng, bỗng ngưng lại, rít một hơi thuốc thật sâu, hay đấy là cách bác ấy lưu giữ cái nhiệt huyết thời tuổi trẻ vào tuổi già, cha tôi có vẻ nơm nớp lo bác ấy lại khơi lại cái hàm cửu phẩm chết tiệt ấy, nhưng không, lần này bác Bảy Bính chỉ gọi tên cha tôi, ông Cứ thấy hồi ấy Bảy Bính này quá khí thế phải không, trung đội trưởng đội thanh niên cứu quốc, nếu hồi ấy thằng Pháp đổ bộ làng ta thật thì chúng đã thất bại thảm hại, bác Bảy Bính lại rít một hơi thuốc thật sâu như thể để củng cố thứ trí tưởng tượng về chiến thắng của mình, nhưng ông Cứ nghĩ sao, một thằng cường quốc mạnh như thằng Mỹ hiện giờ liệu có thắng nổi một xứ sở chịu đói khổ để đánh giặc như xứ sở ta hay không, tôi biết là cha tôi đang cố giấu vẻ bối rối, bỡi bác Bảy Bính bỗng nói ra cái quan điểm như thể của một người thân lực lượng  kháng chiến, nếu không nói là người của lực lượng kháng chiến,

 

***

tôi vẫn cố làm quen với hiện thực lịch sử ấy bỡi cho rằng khi đã xảy ra thế là nó sẽ kéo dài mãi cho đến lúc cũng chẳng ai biết đó là lúc nào sẽ có một thứ gọi là những lý lẽ lịch sử [lô gíc lịch sử] sẽ làm cho nó khác đi, những ngày đi dạy ở ngôi trường ở quận lỵ ấy, nơi nhìn bề ngoài cứ cho là còn trong yên bình, đồng nghiệp của tôi, những người tế nhị, tôi biết là như thể bọn họ người nào cũng muốn hỏi tôi một câu, nhưng rồi chẳng có người nào hỏi tôi, rằng tôi đã gặp những người kháng chiến ở trên núi xuống chưa, bỡi mọi người đều rõ ngôi làng tôi đang sống bấy giờ là thuộc vùng đất được gọi là vùng da beo, từ ngữ có thể coi là thể hiện đầy đủ nhất về một khúc sử, xứ sở tôi bây giờ nhìn cứ giống như những gì nhìn thấy trên màu da của một con báo trên rừng, những vệt màu, loang lổ, nó loang lổ theo nghĩa cả việc chiếm chỗ trên mặt đất, đây là vùng quốc gia, và kia là vùng giải phóng, đấy là cái cách rỉ tai nhau lúc bấy giờ, nó loang lổ theo nghĩa cả việc chiếm chỗ trong nghĩ ngợi con người, ai mà biết những gì đang diễn ra trong nghĩ ngợi một người đang sống trong vùng ban ngày với chính quyền quốc gia và ban đêm với những người trên núi xuống, hay là buổi sáng thấy mình là người của quốc gia, và đêm đến lại thấy mình là người của cách mạng, cái cách thức trong nghĩ ngợi của người làng tôi buổi ấy không phải giống như dòng sông trôi luôn đi những gì đang chảy trong nó, cái dòng chảy ấy là vô ưu, nhưng ở làng tôi buổi ấy, một đứa trẻ vừa biết lùa bò đi ăn cỏ là bắt đầu biết ưu tư về cảnh sống chết trong chiến tranh, trưa, làm sao khi lùa bò trở về chuồng thấy mấy con bò cày của nhà mình phải cành hông ra [hông đầy ra/no] nỗi lo có vẻ siêu hình, cái no của lũ bò cày được đặt ra trước cái no của con người, những thế hệ người làng cứ nối nhau trong cách thức như thế, khắc nghiệt của tự nhiên [ đất đai cằn cỗi, thời tiết bất thường] những trăm năm qua vẫn cứ tiếp tục nện lên lưng những con người của ngôi làng buối sớm mai hú gọi nhau ra đồng làng, buổi tối nhà chú Sáu Đạc ở thầm [không thắp đèn vì hết dầu] thì bác Tám Hỗ gái liền vói sang thím Sáu Đạc sang lấy dầu về thắp, một nhà nhân chủng học, hay một nhà xã hội học đến làng tôi nhất định là sẽ  lúng túng không biết phải thiết lập thứ phạm trù gì cho hợp với cái cách làng đưa người chết về nơi an nghỉ cuối cùng, cái cách một khung giàn bằng gỗ núi vĩ đại cả kích thước và cả cách cấu trúc, cái bệ phóng bí ẩn ấy là được đặt lên trên vai những chàng trai làng khỏe mạnh nhất làng, và bên trên cái bệ phóng bí ẩn là quan tài người chết, như thể những chàng trai trẻ của làng bằng sức lực và lòng thành của mình đang nâng lên tới cõi cao nhất của tồn tại một người đã quyết định rời bỏ thế gian, cứ thế, những trăm năm qua, trong nghĩ ngợi của người làng tôi vẫn cứ thấp thoáng một thứ phía trước đẹp hơn, vẫn cứ đồng nhất trong nghĩ ngợi về một tương lai tươi sáng hơn, về cách nhìn thế giới vốn là không có ai khác ai hết, đêm, nằm trong căn nhà cổ xưa do tổ tiên để lại, nghe con chim vạc kêu trên đồng làng, tôi lại hồi họp chờ có gì xảy ra không, lại cứ thấy nhớ những đêm của tuổi thơ, nhớ ghê gớm, cứ vào chặp tối cơm nước xong là bọn trẻ chúng tôi chạy rần rật trên các nẻo đường làng, vừa chạy vừa hú gọi nhau, cho đến khi toàn thể đám trẻ cùng lứa trong làng đã kết thành một con rồng đất nghìn chân nghìn mắt, chúng tôi nghĩ thế, và cứ thế, tay đứa này nắm lấy đuôi áo đứa kia, cứ thế trườn đi trên các nẻo đường làng, vừa trườn đi vừa hát bài đồng dao con cò lặn lội bờ sông,

 

***

 

tôi vẫn cố làm quen với hiện thực lịch sử ấy, nhưng quả tình là không thể, nó cứ dội vào tâm trí làm dấy lên bao nhiêu băn khoăn, nghi ngại, làm sao đến lúc đó thì con người ấy lại dễ sợ đến thế , thằng cha đó  muốn chết hay sao, cái cách phát ngôn của ông ấy mỗi khi tức giận ai đó như thể là ông đang nắm quyền sinh sát trong tay, cái ông Tám Bảng sáng cỡi ngựa đi tối cỡi ngựa về ấy có đến bốn bà vợ trong tay, và đến lúc làng tôi có hai thực thể lịch sử thì tất cả các bà vợ của ông đều qui tiên, và người làng tôi ai cũng biết là ông đang có kế hoạch bước thêm bước nữa, cái bước thứ năm này sẽ gây ra một thứ biến cố [quá lớn] ở trong làng, ông có đủ sức lực để bước thêm, chắc là bước cuối cùng trong đường tình ái của ông, là nhờ cách phụng dưỡng chu đáo của đứa con dâu, vợ người con trai út, tổ cha bay tránh xa ra đi, cái giọng nói đầy uy lực ấy như đã dính chặc trong ký ức tôi, thuở ấy mỗi lần trông thấy bọn trẻ chúng tôi chảy nhảy trên đường làng thì bác Tám Bảng ở trên lưng ngựa quát lên thế, cái cách chửi ngắn gọn nhưng thâu tóm được nhiều tầng tổ tiên của người bị chưởi, một trong những cách biểu lộ uy quyền thâu tóm của một người, thuở làng tôi chưa có hai thực thể lịch sử thì dãi rừng thấp phía nam con sông Tượng, phần trài ra của  rừng núi Tượng,  như thể trời sinh ra để bù vào cuộc sống thiếu thốn của đám dân nghèo làng tôi, bọn họ vào đây khai phá thành đất trồng trọt, rồi một ý tưởng có tính cách phát kiến là trồng xuống đó loại cây mà lũ thú trên rừng núi Tượng không ăn được, từ đó cây thuốc lá đã được ghi vào lịch sử canh nông của làng, cái nền canh nông về cây thuốc lá đã tạo nên thứ uy lực có vẻ như trời dành sẵn cho bác Tám Bảng, bỡi lẽ không có tiền thì cây thuốc lá vẫn còn trong ý tưởng, thằng cha Ngộ mày có muốn mượn tiền trồng thuốc lá thì tao cho mượn, mùa lên cân thuốc lá cho tao, ông cũng hỏi nhiều người khác có đất trồng thuốc lá  ở phía nam con sông Tượng như hỏi  chú Hai Ngộ, đấy là cách mua thuốc lá non, có nghĩa, tiền cho mượn là tiền cọc mua thuốc lá khi thuốc lá chưa trồng với giá rẻ mạt, có khi chỉ bằng một nửa hay một phần ba giá cả thị trường, biết thế, nhưng người trồng thuốc lá phải có tiền mới có cây thuốc lá, thuở ấy, sáng, bác Tám Bảng cỡi ngựa vào đất thuốc lá, đến các trang trại, thu mua cho đủ số tiền cọc của mỗi trang trại, chiều cỡi ngựa về, theo sau ông là đám tá điền cày đất của mình chứ không phải cày đất của chủ nhưng phải mang thuốc lá đi nộp tô cho chủ, cứ cho là bán một nhưng phải nộp hai, không nộp đủ thì bác Tám Bảng cho nợ, ông nói với mọi người là ông có thể cho nợ cho tới đời con đời cháu, khi làng có hai thực thể lịch sử, và cái đồn lính Đại Hàn mọc lên chỗ bờ sông Tượng, thì đất trồng thuốc lá ở bờ nam con sông Tượng bỏ hoang, không còn mua thuốc lá non, bác Tám Bảng xoay sang mua lúa non, thằng cha  Ngộ mày có cần tiền làm đám cưới cho con tao cho mượn mùa lên đong lúa cũng được, bác Tám Bảng đi nói với những người làng khác đang túng thiếu như nói với chú Hai Ngộ, chỉ là chuyển cái kinh tế chính trị học thưốc lá non sang kinh tế chính trị học lúa non, có nghĩa, bác Tám Bảng vẫn còn giữ nguyên thứ uy lực thâu tóm trời đã dành riêng cho bác ấy, vào một sáng sớm mai, tôi dắt xe máy ra sân, chuẩn bị đi dạy, cha tôi cũng theo chân tôi ra sân, bác Tám Bảng ở bên nhà bác ấy vói sang, chú Cứ có nghĩ con mẹ Quỳnh nó đang làm tình báo cho đám lính Đại Hàn hay không, ở trong làng, chỉ có cha tôi và chú Năm Trữ vì là người có chữ bác Tám Bảng mới gọi là chú Cứ, chú Trữ, còn ngoài ra, thì là thằng cha nọ thằng cha kia ráo hết, cũng phải, bỡi bấy giờ bác ấy là người cao tuổi nhất làng, nhà thím Ba Quỳnh cũng chỉ cách nhà tôi và nhà bác Tám Bảng vài ba cái nhà, từ ngày có hai thực thể lịch sử, cha tôi chỉ ngồi nhà chụm rượu, có đi đâu mà biết chuyện thím Ba Quỳnh làm tình báo cho lính Đại Hàn, từ ngày chú Ba Quỳnh mất, thím ấy vừa làm mấy khoảnh ruộng trên đồng làng, vừa chạy chợ để nuôi thằng con trai độc nhất đi học, và khi có cái đồn lính Đại Hàn chỗ bờ sông Tượng thím ấy làm thêm việc mua thực phẩm vào bán cho đám lính ấy, sáng ấy, tôi cứ cảm thấy cách nói năng của bác Tám Bảng có vẻ gì như đang đứng về phía những người kháng chiến để lôi thím Ba Quỳnh ra nói, bác Tám Bảng là cậu ruột chú Sáu Đạc xã trưởng xã sở tại, và có đến ba người con tham gia kháng chiến chống Pháp rồi tập kết ra Bắc hồi có  hiệp định Giơ ne, không còn đi thu mua thuốc lá nữa, nhưng thỉnh thoảng bác ấy cũng cỡi con ngựa già đi lại trên đường làng như thể để nhớ lại thời oanh liệt của mình, mỗi lần trông thấy bác ấy trên lưng  ngựa nghênh ngang bước đi trên đường làng tôi không còn nỗi sợ hãi thời thơ ấu, bây giờ là một nỗi sợ hãi khác, bây giờ cứ thấy như bác ấy đang nắm quyền sinh sát trong tay, tại sao đến lúc này thì bác Tám Bảng lại có vẻ dễ sợ như thế, câu hỏi có tính bản thể luận ấy cứ vang lên trong nghĩ ngợi của tôi,

 

***

 

ngôi đình làng với mái ngói mòn đen, kết quả của cuộc cọ xát thời gian, như thể biểu tượng của cuộc văn hiến làm bằng những lề thói, những hiển lãm bất thành văn của người làng tôi, tự buổi trăng sao lận đận thì thứ dị bản dị thường ấy luôn đặt lên trên nền tảng cộng đồng luôn nghe nhau được từng tiếng thở dài, ngó lên núi Bé ve kêu/hố Giang nước chảy nhiều điều đắng cay, núi Bé là hòn núi Đất ở phía đông làng tôi, và hố Giang là cái thác nước nhỏ chảy trắng xóa trên sườn ngọn núi luôn thấy màu xanh của cây lá trên dãy núi phía nam làng tôi, thế giới là những mong ngóng của tôi, lịch sử vẫn cứ bước đi, và thở, thứ nhịp điệu tồn sinh của một ngôi làng như tiếng vó ngựa vất vả trên con đường đá ít nhiều được ghi chép trong những văn bản về tế lễ, về thời tiết, về những tai họa, hay những bận thay ngôi đổi chủ, thứ văn kiện luôn trong tình trạng bị rã mục, thất lạc, được cất giữ ở ngôi đình làng như người làm chứng cho các cuộc đồng hành, cuộc vận hành ra biển của nước trên đồng làng và nước trên con sông Tượng ở phía nam làng là đồng hành với cuộc biến hóa có lợi nhất của đám sâu bọ ở các khu vườn ăn trái trong làng là đồng hành với cuộc sinh sản không ngừng của lũ ếch nhái trên thứ đất đai khô nắng luôn nhiều hơn ẩm ướt, lũ sinh vật mà tiếng kêu của chúng nếu thiếu đi thì con người buồn bã biết bao, cái đình làng tọa lạc trên khu đất cao, rộng chỗ đầu làng là gòm có nhà đình, sân đình, cây đa đình, quần thể mang tính huyền học hơn là địa sử học nằm sát cạnh cái quần thể thế tục là bầy đàn người làng tôi không phải là nơi chỉ để cất giữ hồ sơ văn kiện của làng mà còn để ký thác những thứ không thể chép ra trên giấy, sự mong ngóng về một phía trước siêu nhiên, hay nỗi nhớ nhung về một thuở chỉ nghe nhắc nhở một cách mông lung trong nửa câu hát đồng dao, nghe, và chỉ lờ mờ nhận thấy, và không thể không thấy nhớ nhung, hay chỉ là hồn cốt đất đai, thứ vật thể cứ thấy thoắt ẩn thoắt hiện trong nghĩ ngợi một người, đất đai, và con người, sinh vật ruổi ro nhất trong các sinh vật, biết nghĩ ngợi là niềm kiêu hãnh, nhưng lại là nỗi ruổi ro vô tận, trong cách thức tồn tại của muôn loài thì khả năng nghĩ ngợi của con người là nỗi bất hạnh lớn nhất, bỡi nó khiến cho con người nhận ra những nghịch lý của tồn tại, cho nên nó cố ký vào nơi chốn trinh bạch của cuộc bầy đàn những trinh khiết sản sinh từ nghĩ ngợi, đình làng là chốn trinh bạch [một hiện hữu không có bụi] của bầy đàn con người khi đồng thuận sống trên thứ văn hóa bất thành văn, chỉ có các vị thần được người làng tôi ủy thác sống thanh thản nơi ngôi nhà chung của làng là ngôi đình làng là mới hiểu hết những bất hạnh của con người, có một nỗi bất hạnh tôi cho là quá lớn đối với người làng tôi xảy ra vào hồi tháng ba năm ấy, dẫu đang trong buổi có chiến tranh, nhưng người làng tôi vẫn cố giữ cuộc văn hiến của làng, chúng tôi đang chuẩn bị cho kỳ xuân tế, tháng ba cúng cầu an cho làng [ lễ kỳ yên] thì đêm ấy, vào khoảng nửa khuya, cả làng choàng dậy trong nỗi kinh hoàng, những trái đạn pháo nổ xé nát màn đêm, đã có đánh nhau ở trong làng, không phải, sáng ra người làng tôi nhìn thấy ngôi đình làng của mình chỉ còn là đống gạch vụn, đã trải qua bao cuộc bể dâu không hiểu sao ngôi đình làng tôi vẫn cứ còn nguyên vẹn mãi cho đến đêm hôm ấy, cho đến đêm hôm ấy thì cây đa đình làng to đến năm vòng tay ôm cũng chỉ còn là đống cành nhánh gãy vụn, cái tháng ba thật buồn, việc xác định tọa độ trong chiến tranh hiện đại là rất chính xác, cuộc tấn công lúc đêm chỉ nhằm vào cái ngôi đình cũ kỹ ấy, bà con trong làng bắt đầu xì xầm nhau về nguyên nhân của cuộc tấn công bằng đạn pháo, thì cũng chỉ là đoán mò, người nói pháo từ dưới quận nã lên, người nói pháo từ trên núi bắn xuống, trên đường trở về nhà tôi thấy chú Năm Trử tôi có vẻ nghĩ ngợi lung lắm, mãi lúc gần tới nhà chú ấy bảo tôi dừng lại để ông nói cho nghe, chờ cho mọi người đi khỏi ông mới bắt đầu nói, đại khái chú ấy cho rằng chính là do thứ trò chơi hèn hạ của đám cường quốc mới  dẫn đến cảnh đổ nát này, bấy giờ tôi cố lắng nghe, song vẫn chưa hiểu hết,

 

***

tất cả đều hoàn chỉnh, tinh tươm, nó là cấu trúc thiêng liêng của một bầy đàn, rồi bỗng bạn đem những thuyết lý cùng bom đạn của kẻ khác về biến làng xóm mình thành tro than thì có còn ai chấp nhận hay không, thuyết lý vĩ đại nhất là làm sao cho con người sống dần xa con thú trong mỗi con người, nhưng tôi biết là không đời nào thứ thuyết lý ấy lại có thể thâm nhập được vào loài giống con người,

 

***

 

đình làng, nơi ông từ giữ đình làng đã để lại cho tuổi thơ tôi những dấu tích lộng lẫy, như cái rốn của kiến văn, từ đó, một người bước vào cuộc đời với ít đi nỗi hoài nghi, nó là cuộc đụng độ các vị thần, cuộc chơi hào sảng vào lúc đêm xuống, bao giờ cũng là lúc đêm xuống, sau khi cơm tối xong, tôi lén nhà chạy ra đình làng, dẫu là ông có tốt với tôi mấy, tôi cũng phải tìm cách moi ruột gan ông ra, ông phải nói cho cháu biết làm cách nào mà thần cày đã khiến anh Hai Hợp cháu mới gà gáy đầu đã phải thức dậy vác cày ra ruộng, tôi phải giựt râu ông từ mấy bận để thúc ông phải nói ra, ở trong bụng ông từ như đủ cả những gương mặt của các vị thần, trong lúc tôi và ông chơi trò bi kịch cổ đại, tức cuộc đối thoại chỉ diễn ra giữa hai nhân vật là tôi và ông, thì ở trong làng lũ cùng lứa tôi đang đuổi bắt nhau, tôi biết là lũ chúng đang chơi trò cuộc chiến của những anh hùng hảo hán, tức chia làm hai phe rượt đuổi nhau, trong trò chơi này phe thua, hết thảy phải làm ngựa cỡi, lũ cháu nên dẹp trò chơi đó đi, tàn nhẫn lắm, ông từ nói, tôi liền tỏ đồng tình làm như thể đã hiểu tàn nhẫn là thế nào, phải đó ông, phải dẹp trò đó đi, tôi nói, và lại giựt râu ông từ như để nhắc ông về thắc mắc có liên quan tới cuộc đời anh trai tôi, sở dĩ tôi thắc mắc về ông thần cày bỡi mỗi sáng anh Hai Hợp tôi thức dậy đi cày là lại gọi tôi đi mở cổng chuồng lừa bò ra đồng làng với anh ấy, thần cày là kẻ đã khiến cho con người ta yêu con bò với đám ruộng, con bò kéo cày lật đất lên, còn đám ruộng thì làm cho cây lúa trỗ bông, à, là ta quên hỏi, đang giảng giải, ông từ bỗng dừng, ông hỏi tôi về chuyện gì nhỉ, có ngọn gió tạt vào chỗ chúng tôi làm chao ngọn đèn dầu phộng đang thắp trên bàn thờ thần, buổi ấy đình làng tôi có ba gian, gian giữa thờ các vị thần đang cư trú trong làng, gian bên trái là dành cho việc hội họp, và gian bên phải là nơi làm việc của các viên chức  của làng, thằng Đàn cháu cứ khai thiệt với ông là trưa hôm ấy cháu có ném đất vào con bò cày của nhà ông Sáu Liệu hay không, ông từ đột nhiên hỏi tôi về chuyện ấy, là do thằng Bỗ con chú Sáu Liệu nó khích con bò đực của nó xịt con bò đực của nhà  cháu, tôi như vẫn còn thấy tức giận về chuyện trưa hôm ấy, nhưng ông từ đã nắn mấy ngón tay tôi, chuyện con bò đám ruộng là để cho thần cày lo, con bò đực của nhà ông Sáu Liệu có xịt con bò đực của nhà cháu là thần cày muốn coi thử sức lực của đám bò cày làng ta, không phải thằng Bỗ muốn là được, cách giảng giải của ông từ về các vị thần đang trú ngụ trong làng tôi buổi ấy có sức hút ghê gớm đối với tuổi thơ tôi, nó là nhu cầu tri thức của con người, nhưng buổi ấy tôi cứ nghĩ là mình đã bị ghiền chuyện kể của ông từ, mày mà nghe riết chuyện thần thánh của ông từ đình thì sinh lung đấy, anh Hai Hợp tôi thì theo ngăn cản tôi, thật ra anh ấy đâu biết nhờ những câu chuyện thần thánh của ông từ đình mà thế giới tuổi thơ của tôi đã nới rộng đến tận những bờ cõi cứ thấy vừa lạ và vừa đáng yêu làm sao, không bao giờ tôi dứt bỏ được niềm mơ ước rằng một ngày nào tôi sẽ bước vào những chốn ấy, trái với cách xử sự của anh trai tôi, mẹ tôi thì như gặp được kẻ đồng điệu là tôi, bà có một bụng chuyện cổ tích, còn tôi mới chỉ lơ thơ vài vị thần thơ thẩn ra vào trí nhớ tôi, nhưng xem ra mẹ tôi là rất nể nang tôi, con mà học được ông từ đình thì khỏi phải nói, bà nói, đêm mẹ tôi nằm chờ tôi ở chỗ ông từ đình về,  hôm nay ông từ đã kể cho con nghe chuyện gì nào, mẹ tôi hỏi, vẻ háo hức lắm, tôi như còn nghe thấy tiếng chân của vị thần mắt ướt, ông mồ côi cha mẹ, năm tuổi đã phải đi xay lúa cho người ta để kiếm cơm ăn, nhà này không muốn nuôi ông nữa thì ông đến xin ở nhà khác, cho đến khi thành chàng trai vạm vỡ ông vẫn đi xay lúa cho chủ, và cho đến lúc thành thần ông vẫn còn đến từng nhà bảo để ta xay lúa giúp cho, mẹ tôi khóc, tôi cứ kể cho mẹ nghe y như ông từ đình đã kể cho tôi nghe, việc mẹ tôi mủi lòng khóc vì cuộc đời bất hạnh của thần xay lúa lại kích động tính hiếu kỳ của tôi, bao giờ cũng là lúc đêm xuống, cơm tối xong là tôi lại chạy ra đình làng, ông phải nói cho cháu biết có phải là có một vị thần cho người ta áo mới hay không, có cái gì đó khác thường ở ông từ đình, cứ hỏi về cuộc đời một vị thần nào đó là ông lập tức giảng cho tôi nghe, nhưng lần này, về vị thần áo mới, thì ông từ cứ ậm à ậm ừ, để hôm nào ông kể cho nghe, ông hẹn, cơm tối xong là tôi lại chạy ra đình làng, và ông từ lại hẹn, tôi cứ sợ ông từ chết, với tuổi tám mươi của ông thì dễ chết lắm, tôi đã thấy bao nhiêu người trong làng chết, và sau đó thì không bao giờ còn gặp lại, ông đừng chết nghe ông, tôi theo năn nỉ ông từ, ta quen biết bao nhiêu thần thánh mỗi người chỉ cho ta vài tuổi là ta có thể sống mãi, ông nói, và tôi lại giựt râu ông, hãy kể cho cháu nghe về thần áo mới đi ông, vào một đêm mưa gió tôi đội mưa chạy đến đình làng, dường ông từ đang chờ tôi, có thấy lạnh không cháu, ông hỏi, tôi vung vẩy người tôi mấy bận như thể để nói là mình vẫn đầy sức lực, rồi ngồi xuống cạnh ông từ, ở bên ngoài mưa vẫn nặng hột,  mới cơn mưa đầu mùa đông mà thời tiết đã tỏ ra át liệt, nước mưa ở mái đình xối xuống như một cái thác nước nhỏ, gió, và giông sấm, ngọn đèn dầu phộng trên bàn thờ thần bỗng phụt tắt, tôi cứ tưởng tượng là các vị thần của làng đang đội mưa gió trở về ngôi đền thờ của mình, buổi ấy, cứ coi như người làng tôi theo đa thần giáo, các vị thần phảng phất ở khắp nơi, ngày tết, tôi từng thấy cha tôi cúng thần giếng, thần vườn, thần bếp, bỗng tôi cứ thấy như mình đang bước vào một cuộc đời mới, không phải cuộc đời buổi sáng sớm phải lùa bò ra ruộng cho anh Hai Hợp tôi, thằng Đàn cháu có còn nghĩ đến thần áo mới không, ông từ bỗng hỏi, tôi cứ muốn rống lên, vui sướng vì sắp được nghe về kẻ ngày tết đã cho mình áo mới, nhưng ông từ đã nắn nhẹ mấy ngón tay tôi, không có thần đó đâu cháu, bỡi tuổi thơ của ta chưa bao giờ được mặc áo mới, bấy giờ mưa lớn lắm, song tôi vẫn nghe rõ từng lời ông từ, rõ lắm,

 

***

 

tôi lớn lên từ những thứ như thế, buổi ấy tôi cũng có những ước mơ của chàng trai đang lớn lên giữa một cuộc đời, ngó bốn chung quanh, thấy người ta đang yêu nhau, thấy người ta có những mái ấm, những người già thì đang bàn về chuyện đất nước và thở than về mảnh đất quê cằn cỗi của chúng tôi, cái xóm nhỏ như thể không chịu đựng nổi những nghĩ ngợi của một người cứ muốn làm nổ tung cuộc sống đều đặn và tẻ nhạt là tôi, nhưng dẫu gì tôi cũng rất biết ơn mùi đất đồng làng và con đường quê lúc nào cũng đầy phân bò, bây giờ, khi viết được những dòng này dường cái xóm nhỏ sắp nổ tung buổi ấy đang che chở cho dòng ý thức của tôi, cuộc tình ấy nó là  bản sao của một đêm mùa hạ có tiếng dế kêu nơi bờ tre làng, đêm tôi và em đứng ở bên bờ tre làng, không dám hôn nhau, cuộc tình ấy chỉ phảng phất như ngọn gió mùa gió nam non hơi làm rung rinh ngọn lá, cứ thấy sợ như có cái gì mới lạ đang diễn ra trong cuộc đời của tôi và em, nhưng dẫu gì cái xóm nhỏ ấy cũng đã che chở cho chúng ta, em, buổi ấy cũng đẹp như ngọn cỏ đang trỗ bông trên bờ cỏ đồng làng, thì tôi cũng cứ kêu lên vu vơ thế, cho đỡ niềm cô độc,

 

***

 

dường như là tôi đang cố gắng trở về với tuổi thơ của mình…ngựa hồng đã sẵn bên thềm, tiếng hí làm vang động cuộc đường dài ngang qua những khu vườn ăn quả có ông lão đội mũ nan giả làm kẻ hành khất đứng chờ khách qua đường, có nhìn thấy cậu bé cỡi ngựa hồng chạy về phía mặt trời mọc hay không, ông lão hỏi với nụ cười hiền như nắng thu, có tiếng gì như tiếng nước chảy trong đất ở dưới chân, và rồi khách đường xa xuống ngựa ôm chầm ông lão không nói lời nào, sự im lặng như thể để xác nhận chính mình là kẻ ông lão đang tìm,

 

***

 

tôi đọc kinh văn đạo Ruộng của chú tôi cứ thấy chập chờn trong tâm trí những điệu thức vừa lạ vừa quen, một vùng sa mạc rộng lớn tung bụi mù, các rừng tai ga lùi về mọi phía, phương bắc như thể đang trải qua cơn sốt có thể coi là rất lớn trong lịch sử những cơn sốt, thật ra thì cũng chỉ là thêm vào nội dung cổ đại cái gọi là bạo lực, vốn là thuộc về thứ xiếc những nghìn năm trước đã đem ra diễn ở thành cổ Acropolic, Hy Lạp, hay là trong các cộng đồng bác ái ở các xứ sở phía mặt trời lặn thời trung cổ, xiếc ròng, cộng với bạo lực, đó là công thức diễn xuất của xiếc nước Khạ, xứ sở mang tên người sáng lập ra nó: I Va I Ô Khạ,  mà gọi tắt là Khạ, ngài Khạ, và nước Khạ, không thể dùng các loại từ như ông, hay anh,  để đi kèm với Khạ, bỡi làm thế là không thể hiện được vẻ khác thường của  kẻ sáng tạo ra trò chơi thuộc hàng siêu hạng, “hết thảy hãy ngồi lại với nhau”, đó là tên gánh xiếc, thì cũng chỉ là rập khuôn kiểu cũ, hết thảy hãy ngồi lại với nhau tức là một thứ hợp bầy, ngài Khạ leo lên bục diễn chỉ  tung một ngọn lửa đỏ lên trời mà làm tiêu tan hết thảy những áp bức lầm than, lập tức đám diễn viên xiếc, những người con ưu tú của nước Khạ, xông lên đập phá hết thảy những gì được cho là cũ, những con đường cũ, những ngôi nhà cũ, những tâm trí cũ, những cuộc tình cũ … hãy phá bỏ hết cái cũ để làm ra cái mới, ngài Khạ lại tung ngọn lửa lên trời, và nói lớn lời ấy, cuộc đập phá làm chấn động cả các thần cai quản núi sông, cả các thần coi ngó hành vi con người, nát cả hồn cỏ cây, đó là tên bài ca của xiếc, bài ca vang lên khắp các nẻo đường, xiếc ròng nước Khạ là cuộc chuyển động vũ bão, của hợp quần, và của bạo lực, hoặc là tôi, hoặc là anh, không có chuyện tôi và anh, chuyện đó là phản bội, sáng choang những gương mặt, các giá trị con người đang được phục hưng, hoan hô phục hưng, các nơi chốn gào lên, nước mắt của vui mừng, các  mùa như không còn kịp trôi đi, xiếc ròng có nghĩa từng phút giây bạo lực chảy trong từng mạch máu, cho đến một hôm khi nghe từ bục diễn có tiếng hô giết của ngài Khạ, thì tất cả đã tiến vào mọi ngõ ngách của xứ sở, lục lọi, truy xét, điểm mặt, hết thảy đám người được coi là mất phẩm chất đã bị giết chết, máu của bọn họ là để chép kinh văn của xiếc, một cuốn sách chép bằng máu người trở thành chủ nghĩa,

 

***

 

tôi cứ nghĩ là cha tôi rất buồn khi cái đình làng nơi ông gắn bó một thời đã bị pháo bắn sập, nhưng không phải, khi nghe chuyện, ông chỉ thốt ra mấy từ ngắn ngủn: bị bắn sập rồi sao, rồi sau đó không còn bình luận gì thêm về sự cố coi như quá lớn đối với người làng tôi, nhưng có vẻ như nhân chuyện đó ông đã giảng cho tôi nghe về con đường của rượu, từ ngày xứ sở tôi rơi vào cảnh phân hóa, chú Năm Trữ tôi lao đầu vào thứ tôn giáo do chính ông sáng lập, đạo ruộng, cha tôi thì đắm chìm vào việc chưng cất rượu, đây là lần đầu tiên tôi nghe cha tôi nói về rượu, nó, rượu ấy, là  giữ ở trong mình cách con sâu trong cái kén với niềm mong ngóng thiết tha về một cõi khác đã tự phá vỡ vỏ bọc của mình để thành bướm,  cha tôi bắt đầu câu chuyện về rượu bằng chuyện con sâu chuyển thành con bướm, ông nói như thể đang thanh thản nhặt ra những lời hoa gấm từ ngọn lửa bếp khi thì òa vỡ như đang muốn phá bỏ biên giới của mình khi thì thu nhỏ lại đến mức thành niềm khiêm tốn, chẳng lẽ cha tôi đã tìm thấy có sự tương đồng nào đó mang tính triết học giữa những gì đang xảy ra ở trần gian này và những gì đang diễn ra trong con đường chuyển hóa có tính cách vật lý từ cơm đến rượu, hay đấy là thứ phúng dụ [tuyệt vời] cha tôi phát hiện được trong những ngày ông vùi đầu vào việc chưng cất rượu, một bài giảng về những gì không thể đem ra giảng, tôi nói là bài giảng bỡi cái cách diễn đạt của cha tôi như một người đang truyền đạt những gì đã trở thành máu thịt mình, hay con đường của rượu chỉ là cách diễn giải khác của cha tôi về những gì ông đã trải qua, một giấc mơ dài bắt đầu từ hôm con người nhận ra thứ tín hiệu của suy tàn, nhận ra tín hiệu suy tàn nhưng vẫn cứ lũ lượt kéo về phía trước trong mong mỏi mù lòa, cái hôm thấy người làng ta thay vì ra đình làng nộp thuế thân bằng tiền đã còng lưng kéo những cộ lúa đầy về phủ nộp, những cộ lúa là gom góp hết thảy số lúa thu họach được khi mùa lên, ta đứng nhìn đám dân làng của ta, và cứ thấy như thể đang lạc vào xứ lạ, quả tình thứ chữ nghĩa ta đã  học được đã giúp ta nhìn thấy ta đã đi lạc, những năm tháng rời bỏ đình làng và đám quan chức của làng để cày ruộng và đọc sách ta vẫn chưa an tâm, cho đến hôm nghe thấy tiếng reo trong nồi cơm rượu ta như sực tỉnh nhớ ra những gì đã diễn ra trong một giấc mơ, cha tôi say sưa nói, gạo nấu thành cơm trộn cùng men, thứ chất được chế ra từ một thứ chất khác có tính chất gây biến động ở một chất khác, men, dường như cách gọi ấy là quá quen thuộc, là cái vẫn gây xáo trộn cuộc sống trần gian, khi gạo đã nấu thành cơm đem trộn với men bỗng như có bàn tay ai đó khuấy lên một cuộc bể dâu, cái không còn nữa là mùi cơm gạo, thời gian có sức tàn phá tàn nhẫn trong chuyện này, chỉ sau vài ba hôm đem cơm gạo ủ với men thì tất cả những chuyện cũ không còn nữa, bây giờ là một thế giới khác, sự vật có vẻ như đã biết  tên gọi của mình,  bây giờ không còn là cơm gạo, mà là cơm rượu, cái thế giới ở trong đó là những tranh chấp, những trì hoãn, những thúc bách, những  mưu toan, cái đểu giả là đang cố chen vào giữa những chân thành, khi đã cho vào nồi đun thứ cơm rượu ấy và bắc lên bếp thì cha tôi đã  cầm nắm trong tay quyền năng cầm giữ ngọn lửa đốt lò và luôn nghe thấy cuộc chuyển động vĩ đại diễn ra trong nồi cơm rượu, và quả tình, sau cùng là niềm cay đắng bước ra từ cái thế giới sôi động và bất trắc ấy, cha tôi vừa điều khiển ngọn lửa bếp vừa kể cho tôi nghe câu chuyện của rượu, cái cay đắng bước ra chính là những giọt rượu trong ngần được hứng lấy từ sự ngưng tụ của hơi nước, buổi sáng tháng ba ở làng tôi có thứ gió từ phía biển thổi lại nghe mát mẻ một cách bình yên, không đâu, đây là buổi xứ sở tôi đang có chiến tranh, mà câu chuyện về rượu lại làm cho cha con tôi có được những khoảnh khắc bình yên,

 

***

 

tháng ba gãy những ngọn gió từ phía biển thổi lại trả lại cho đất đai âm vọng thanh thản cho dù bấy giờ những thứ đó chỉ là thuộc về cái tạm thời, nhưng chỗ đọng lại của năm tháng là vị mặn của biển trong những con nòm ngọt lịm như vẫn cứ làm khuây khỏa những thúc ép, những dày vò, thậm chí có thể len vào giữa những cảnh chết chóc, những cơn gió mang mùi biển mặn ấy có thể len vào giữa những cách thức đang làm tàn rữa cấu trúc của một bầy đàn, chốn chôn nhau cắt rốn của tôi, có thể không thể làm tan đi những thù hận bỗng bật thốt ra từ một khúc sử con người như những con chim bị giăng mắc trong thứ trò chơi tàn nhẫn, có thể không thể ngăn nổi cuộc đọ sức một mất một còn giữa những thiên kiến như những ngọn lửa mù lòa, nhưng vào cái buổi sáng tháng ba không mấy bình yên ấy tôi đã thử làm mỗi công việc của buổi thái bình, nó không là gì cả chỉ là thử bước đi trên cánh đồng làng thân thuộc giữa những ngọn gió mang mùi biển mặn, gió, và những bằng chứng của sự sống là tôi, là lúa tháng ba ngậm sữa, và cỏ đang trổ hoa trên các bờ mẫu, tôi vẫn cứ có cảm tưởng là vẫn cứ thấy giống như buổi ấy, tháng ba, lũ trẻ bọn tôi bắt đầu tạo dựng bầy ngựa cỏ, một thời niềm vui rộng mở đến tận những cõi chưa bao giờ biết, ngựa là thứ bầy đàn thân thiết với bầy đàn tuổi thơ chúng tôi, sau những ngày thao thức vừa ngây thơ vừa mang tính sinh tồn, các loài cỏ trên các bờ mẫu đồng làng đã biến thành bầy ngựa tạp chủng, chúng tôi nhảy nhót giữa nắng tháng ba như vừa đủ làm tăng thêm ấm áp ở trong lòng, cứ sợ cỏ úa, đám ngựa tàn lụi đi, bọn chúng tôi vội vã đặt tên cho chúng, phải làm như thế mới thấy yên lòng, rồi ngựa của đứa này là ngựa bạch thảo bỡi được kết bằng những thứ cỏ có bông hoa trắng muốt, ngựa của đứa kia là ngựa hồng thảo bỡi được kết bằng những thứ cỏ có  màu hoa thắm đỏ, chuyện đặt tên ngựa là kết quả của một cuộc thương thuyết hơi quá sức đối lũ trẻ bọn tôi, ông lão có chữ ở trong làng đồng ý đặt tên ngựa cho bọn tôi với điều kiện mùa hoa cỏ năm sau bọn tôi không được tái diễn trò chơi ngựa cỏ để không còn cảnh dẫm lên lúa trên đồng làng, chuyện đặt tên cho bầy ngựa khiến chúng tôi thấy nhớ nhung đám ngựa cỏ nhiều hơn, bỡi cái ngày khủng khiếp ấy đã đến, nắng tháng tư đốt cháy cả cỏ trên các bờ mẫu đồng làng, đám ngựa cỏ của chúng tôi bị xóa sổ, tháng ba tôi bị mê hoặc bỡi những âm vọng tuổi thơ, và có vẻ như đang lạc loài giữa một khúc sử mà chú tôi vẫn bảo là hệ lụy của những trò chơi hèn hạ nào đó,

 

***

 

mẹ tôi người phụ nữ mang dáng vẻ chung của những người phụ  nữ làm công việc nội trợ trong một ngôi làng buổi sáng thức dậy công việc đầu tiên là đi mở cửa chuồng cho đám gà thức dậy tự lúc sao mai còn rõ đang chi chát giành nhau chỗ đứng ở trong chuồng tiếp đến là đi đổ cám cho lũ heo có vẻ như vẫn biết thân phận là cứ nằm yên trong chuồng kêu la để nhắc nhở chủ về bữa ăn sáng của chúng, có vẻ như đấy là toàn bộ cách thức mở đầu cho một ngày mới của những người phụ nữ làm công việc nội trợ trong một ngôi làng mà lúc tôi vừa có chút trí khôn đã bắt đầu nhận ra mãi mãi ở đó là cuộc sống gian truân, con người mãi mãi  bám lấy  ruộng vườn với đám vật nuôi, thật ra, không phải con người nuôi đám vật nuôi, mà là chúng, đám vật nuôi ấy nuôi sống con người, cho dù sáng thức ra mẹ tôi lo miếng ăn cho đám gà heo trước, có vẻ như mẹ tôi đang nuôi chúng, nhưng thực ra  chúng vẫn  là những thứ đang nuôi sống chúng tôi, sáng thức ra tôi vẫn cứ quen với thứ cảm giác quen thân về sự tồn tại của một ngôi làng là luôn nghe thấy tiếng gà heo đây đó trong làng đến đỗi đôi khi tôi lại nghi ngờ là chỉ đang nghe thấy trong tiềm thức, vào cái buổi sáng tháng ba không mấy bình yên, vẫn như thường lệ, mẹ tôi thức dậy lo việc gà heo xong rồi mới nghĩ đến việc nhà tôi ăn gì trước khi tôi lên đường đi dạy học mẹ tôi lên đường đến chơ phiên và cha tôi thì bắt đầu chưng cất mẻ rượu mới, sáng ấy nhà tôi vẫn ăn cháo rau đắng như mọi sáng, thứ thức ăn vận dụng tài nguyên xứ sở là chủ yếu, rau đắng là rau mọc hoang trong các khu vườn nhà, chỉ việc nhổ lên, phơi khô, đốt lấy tro, nước ngâm tro rau đắng sau khi đã lọc sạch là nước dùng để nấu cháo, mẹ thằng Hợp thêm chút muối nữa thì cháo ngon hơn, cha tôi nói, phải đấy mẹ, tôi cũng thêm vào, mẹ tôi chỉ im, vẻ nghĩ ngợi, tôi biết không phải bà nghĩ ngợi về nồi cháo rau đắng hơi lạt muối, ở ngoài vườn, có lẽ mẹ tôi đã cho bọn chúng ăn uống no đủ nên chẳng còn nghe tiếng kêu la của lũ gà heo, thấy mẹ tôi không nói gì về chuyện nồi cháo lạt muối cha tôi cũng im, vẻ cũng nghĩ ngợi, tôi cũng nghĩ ngợi thật nhiều về thái độ hơi khác thường của ông hiệu trưởng trường tôi đang dạy mỗi lần chúng tôi gặp mặt nhau, tôi đang nói về cái buổi sáng của một ngày mới sau một đêm không có cuộc  đụng độ nào giữa các lực lượng chiến tranh, mẹ tôi cho lũ gà heo ăn xong thì cho chúng tôi ăn cháo rau đắng, thật ra chủ yếu không phải là chuyện cháo rau đắng lạt muối, thay vì nói ra những nghĩ ngợi sau một đêm bình yên cha tôi lại nói về chuyện nồi cháo rau đắng lạt muối, và mẹ tôi, thay vì nói ra những nghĩ ngợi về việc tư dưng bà cứ thấy mắc nợ thằng Lữa đứa cháu gọi bà bằng cô ruột cứ thấy mình có trách nhiệm về chuyện đói no sống chết của nó, thay vì nói ra những nghĩ ngợi ấy mẹ tôi chỉ im, và tôi cũng chỉ im vì chẳng dám nói ra việc ông hiệu trưởng trường tôi đang dạy đang nghi ngờ tôi có dính dáng với những người trên núi,

 

***

 

khi trông thấy một hệ thống đồn bót qui mô được dựng lên ở bờ con sông Tượng với những người lính ngoại quốc lạ lẫm, lập tức người làng tôi hiểu ra rằng lại thêm một nỗi chết nữa vào xứ sở chúng tôi, bỗng bước vào cuộc sống của  một làng quê heo hút một giống người lạ, ánh mặt lạ, giọng nói lạ, cứ dấy lên trong trí tưởng người làng tôi về một cuộc giết chóc mới, nhất định là đẫm máu, bỡi cuộc giết chóc này là được thực hiện bỡi những con người không cùng dòng giống với chúng tôi, như dòng sử lịch u buồn bỗng ám vào cuộc sống vốn đang mang trong nó những nỗi sợ hãi, có ai đó trông thấy, rồi đi nói với ai đó, lời truyền, như thể thần thoại thời đương đại, trong cảnh hoàng hôn chập choạng ai đó đã trông thấy thứ cảnh trí khác thường, một cách hành quân thật khác thường, đám lính Đại Hàn cõng nhau, cuộc hành quân đêm bằng cách cõng nhau, lời truyền như  thể thần thoại đương đại, nhưng cuối cùng người làng tôi cũng gỉai mã được, một trăm người cõng nhau thành hai trăm người, chiến thuật đánh lừa đối phương chưa hề nghe nói trong lịch sử chiến tranh, vậy mà ngày ngày đám lính Đại Hàn ấy vẫn đi lại giữa những con người cày cuộc chắc thật của bầy đàn người làng tôi, đám lính Đại Hàn vào tận các xóm làng để mua gà heo, và lặn lội vào các buổi chợ phiên của làng để mua các thứ  rau cải thịt cá, trong cảnh ngôn ngữ bất đồng, đám lính ấy cứ hét lên, và làm dấu bằng tay trong cuộc mặc cả mua bán, thực ra chẳng thể có chuyện mặc cả trong mua bán, những người bán rau cải thịt cá ngoài chợ vẫn bán cho đám lính ấy với giá cả bình thường, nhưng bọn họ lại sợ đám lính Đại Hàn cho là  bọn họ đã bán với giá cắt cổ, sẽ quay lại cắt cổ bọn họ, thấy đám lính Đại Hàn xuất hiện ở chợ phiên làng là những người bán rau cải thịt cá  lại nghĩ đến tai họa sắp ập xuống đầu mình, chỉ có một người nghĩ ngợi đơn giản là thím Ba Quỳnh đã mang các thứ thực phẩm vào tận đồn bót chỗ bờ sông Tượng để bán cho đám lính Đại Hàn, ở làng tôi ai cũng biết thím Ba Quỳnh vừa làm khoảnh ruộng trên đồng làng vừa mua bán các thứ thực phẩm để kiếm tiền nuôi đứa con trai  duy nhất ăn học, thím Ba Quỳnh chỉ nghĩ  làm sao kiếm được tiền cho con ăn học, nhưng các phe phái trong chiến tranh thì không nghĩ đơn giản như thế, vào một đêm tháng sáu, có  rất ít người nghe thấy có tiếng súng ở trong làng vì những cơn gió  nam thổi dồn dập, sáng ra, chú thím Sáu Liệu nhà ở sát nhà thím Ba Quỳnh thấy bên thím ấy sao im ắng quá, sinh nghi, bỡi sáng mở mắt ra là trông thấy thím Ba Quỳnh mang ra sân các thứ  gánh xách chạy chợ, cái buổi sáng buồn bã ấy chú thím Sáu Liệu là những người đầu tiên nhìn thấy thím Ba Quỳnh nằm chết trên vũng máu ở sân nhà thím ấy, thím Ba Quỳnh đã bị bắn vào ngực, vết thương còn rỉ máu rất nhiều, ở trên ngực còn có bản án viết bằng giấy học trò: Bà Bùi Thị Quyên đã làm gián điệp  cho giặc Đại Hàn chống lại cuộc kháng chiến giành độc lập của dân tộc ta nên cách mạng xử tội chết, Quyên là tên thím ấy, còn gọi thím Ba Quỳnh là gọi theo chú  ấy,

 

***

 

tôi đọc kinh văn đạo Ruộng của chú Năm Trữ tôi thấy có chỗ như những hơi thở dồn dập như thể sắp trút hơi cuối cùng, đọc cứ sợ hãi, ở phía bên kia ao trời, biển mặn, ngài Hũa, chủ của đất Hũa,  lấy mỡ bôi lên trán để làm xiếc, thiên hạ rùng rùng kéo tới đầu quân, bấy giờ gọi là phía của tự do, à ra sầu muộn cũng là thứ bản chất của con người, bi thương đeo đẳng, thế giới, bản trường ca đấy là kinh văn của xiếc Hũa, người ta có thể hôn nhau trên đường phố, hôn nhau trên đồng ruộng, hôn nhau trên núi đồi, và tụng kinh văn xiếc Hũa, đây là phía của tự do, người ta có thể hú lên một tiếng, chiêu sinh, hay gọi là gọi bầy, cái bầy đàn sau đó có thể là có kỷ cương riêng, có niềm tin riêng, những tuyên bố định mệnh, những thứ ismes, chủ nghĩa, có thể ra đời, và chết đi, người ta có thể khi tức giận chửi nhau bằng mòm, hay bằng giấy bút, có khi  không chửi rủa, mà  bắn giết nhau bằng gươm dáo,  người ta có thể nửa đêm đến đập cửa và bắn vào đầu kẻ thù, chẳng cần tụng kinh văn, xiếc Hũa nó là cuộc chơi lỏng lẻo, tàn phá, hống hách, vừa gian giảo, vừa thành thật, một cõi đi về rặt những tiếng cười ngạo mạn và những giọt nước mắt đậm mùi trần thế,

 

***

 

hay là lâu lâu nhân loại phải  điên lên một chút để tỏ ra con người là con vật có tư duy,  và để cho những cóc, ếch, nhái, đám sinh linh đàn em, phải kêu lên, ôi, các anh lạ lắm, hay là lâu lâu phải nghĩ ra những thứ thuyết lý  như thế, những thứ thuyết lý về sự tự do của con người, về những cuộc đời không còn bất công đau khổ, nghĩ ra, và đem rải lên nhân gian, một ngày nắng ấm thế gian bỗng nhìn thấy  đầy dẫy  những đại tự sự, và nơi ngôi làng thân yêu của tôi bỗng hiện ra những hình hài mới mẻ, những thực thể chính trị vừa ráo mực được làm ra từ những con người vốn mặc cùng sắc áo cùng bước theo lũ bò trên đồng làng, dường như là lâu lâu nhân loại lại phải thay đổi bộ dạng một chút, là phải lập ra phe cánh, mỗi phe cánh giữ một thứ hệ hình  nghĩ ngợi, cứ giữ chặt trong tay những  nghĩ ngợi của mình, rồi thù địch nhau, thứ thù địch không đời nào nhìn thấy trong xã hội các loài cầm thú, cái ví dụ về chuyện lâu lâu nhân loại phải điên lên một chút lại rơi trúng vào nòi giống tôi, rơi trúng vào đất nước tôi, rơi trúng vào ngôi làng nơi tôi sinh ra và bắt đầu biết nghĩ ngợi về chuyện dường nhân loại lâu lâu lại phải tỏ ra bất bình thường một chút, chuyện bất bình thường ở làng tôi buổi ấy là những người vốn mặc cùng sắc áo cùng lũ bò bước đi trên ruộng đồng, những người quốc gia và những người trong lực lượng giải phóng đã sát phạt nhau không nương tay, đêm, nghe có tiếng chó sủa trong làng là biết sắp có người chết, như thể đã mù lòa con mắt bầy đàn mấy nghìn năm tọa lạc trên thứ văn hiến hơi thô thiển, nhưng rất thật, đêm, vầng cối giã ra dưới trăng, sao không thấy sang nhỉ, người con gái chỉ lén nghĩ trong nghĩ ngợi về người con trai ở nhà bên, nói là người tình thì không phải, buổi ấy dường như chưa có thứ hệ hình gọi là tình yêu, vậy mà trăng sáng một chặp thì người con trai nhà bên cũng sang, hình như buổi ấy con trai con gái làng tôi khi đã cùng đứng dưới trăng bên cối gạo là đã hình thành một cuộc vợ chồng, khi cái ví dụ về chuyện nhân loại lâu lâu phải điên lên một chút rơi trúng vào đất nước tôi, thì ở làng tôi những người quốc gia và những người trong lực lượng giải phóng đã sát phạt nhau trên thứ văn hiến đầy ánh trăng ấy, tôi nói ra được thế này là đã thừa nhận rằng mình đang nghĩ ngợi trong sự tan rã của một bầy đàn,

 

***

 

dường các tôn giáo đều sinh ra từ nỗi bất an, cứ giả vờ rằng cứ hành xử theo cách đó sẽ tìm lại cân bằng trong đời sống, niềm tin có vẻ như một thứ giả vờ mang tính tiên nghiệm, cứ tin rồi sẽ thấy không còn thấy bất an, nhưng nỗi bất an trong chiến tranh là sự thiếu cân bằng trong cảm xúc có trộn lẫn nỗi ám ảnh về cái chết, đêm ấy, vào quãng nửa khuya, cả nhà tôi đều choàng dậy vì tiếng kêu be be thảm thiết của con nghé con lạc mẹ,  con nghé nhà ai chắc chết, cha tôi lên tiếng trước,  tôi bước lại cửa sổ nhà cầu, hé dòm thử, nhưng mẹ tôi đã gắt:  đừng, đóng lại đi con, tôi vội dập lại cánh cửa sổ làm bằng ván gỗ, một tiếng va chạm nhỏ vang lên, giữa sự tĩnh lặng của đêm trong tình trạng có chiến tranh ở quê tôi thì một tiếng động nhỏ như thế cũng có thể mang lại những hệ lụy khôn lường, có thể là đang có một lực lượng chiến tranh nào đó đang có mặt trong khu vườn nhà tôi, đám lính bảo an quận kéo lên, hay những người kháng chiến trên núi xuống, tiếng va chạm do tôi gây ra, theo cách nhìn của bất cứ lực lượng chiến tranh nào đang có mặt trong vườn nhà tôi lúc ấy đều cho là ám hiệu nhà tôi phát ra cho ai đó, sau đó, có thể là những gì rất tệ hại xảy đến với nhà tôi: cái chết, hay cảnh bắt bớ, tù đày, tiếng kêu thảm thiết của con nghé con lạc mẹ lại vang lên trên đồng làng, có thể là lúc ban chiều con nghé đã theo đám cỏ non ở đâu đó quên trở lại bầy đàn, cho đến lúc thấy  mỗi mình đứng giữa đêm thâu thì cất tiếng gọi mẹ, chính là khoảng thời gian giữa hai tiếng gọi mẹ của con nghé đã làm cho cả nhà tôi thấp thỏm lo âu, cầu trời con nghé không sao, cha tôi lại than thở, ông nó có im đi không, mẹ tôi lại sùy suỵt, tai họa gì sẽ xảy ra với con nghé, phe nào cũng có thể nghĩ cái bóng đen của con nghé  trên đồng làng là đối phương, có thể sẽ có súng nổ, nếu đang có một lực lượng chiến tranh nào đó di chuyển trên đồng làng, thì cũng chỉ mấy đêm trước đó, một cuộc đụng độ lớn đã diễn ra ở đó giữa đám lính bảo an quận và những người kháng chiến trên núi xuống, hơn chục mạng người đã ngã xuống,  điều đau lòng là  những người chết, của cả hai phe, đều là người làng tôi, mong cho con nghé bình yên, tôi thầm cầu nguyện, nhưng rốt cuộc con nghé vẫn còn sống để trở về nhà, mới tờ mờ sáng chú Hai Ngộ đã ra ngõ rống lên: bà con ơi con nghé con nhà tôi vẫn còn sống trở về nhà, chú ấy mừng quá, cứ ra ngõ rống to lên như thế, chỉ trong chặp sáng cả làng tôi đều biết tin con nghé con kêu khóc trên đồng làng trong đêm là của chú Hai Ngộ và đã bình yên trở về, cả nhà tôi đang vui với tin tức tốt lành ấy thì thấy chú Hai Ngộ lẻo đẻo đi vào sân, một buổi sớm mai khác với những buổi sớm mai khác, cha tôi đút xị rượu vào túi áo của chú Hai Ngộ, cái này tôi biếu chú để trưa cả nhà chú uống mừng con nghé, còn bây giờ thì chú uống với tôi, cha tôi nói, ông đã phá giới, bỡi từ lúc đắm mình vào học thuyết trốn đời bằng cách ngày ngày lao vào việc chưng cất rượu, cha tôi không uống rượu nữa, phải để cho tỉnh táo trước mọi sự, ông đã cho cả nhà tôi biết về cuộc sống mới của ông, sáng ấy cả cha tôi lẫn chú Hai Ngộ đều say, bây giờ tôi hỏi chú có đúng là chú Hai Ngộ đấy không, thì đúng là Hai Ngộ đây mà anh, cuộc trò chuyện giữa hai người có vẻ gì đấy rất thiêng liêng, cái chất người thật như đất đồng làng thì phải,

 

***

 

tôi ẵm cha tôi lên giường, buổi sớm mai khác với những buổi sớm
mai khác, cha tôi say đến độ không biết là chú Hai Ngộ đã ra về, và không biết đứa con trai ông từng ẵm bồng đã ẵm ông lên giường, tôi cũng không biết vì sao có ngày tôi lại ẵm cha tôi như thế, tôi cũng không biết vì sao lại có một buổi sớm mai như thế,

 

***

 

chú say thế không gánh được đâu, mẹ tôi nói, nhưng chú Hai Ngộ vẫn dành lấy gánh rượu của mẹ tôi để gánh, ông chào cha tôi ra về lúc mẹ tôi gánh gánh rượu bước ra sân, tôi phải ra chợ làng để nói cho bà con mình hay là con nghé của nhà tôi đã bình yên trở về, chú Hai Ngộ nói, chính là ông đã đề nghị mẹ tôi để ông giúp mẹ tôi gánh rượu ra chợ, nhưng giờ chú còn phải về nhà kẻo thím ấy chờ, mẹ tôi nói, con nghé đã trở về rồi còn chờ gì nữa, chú Hai Ngộ nói, và gánh gánh rượu chạy ra ngõ, mẹ tôi chẳng còn biết làm gì hơn, lúp xúp chạy theo sau

 

***

 

ta nghe nói là con trai trưởng ông Bảy Bính đã dẫn lính về làng phải không, ông ngồi dậy trên giường, hỏi, rồi lại nằm xuống, giọng nói của cha tôi còn kéo dài và đứt quảng chứng tỏ ông vẫn chưa ra khỏi cơn say, đúng là khi tôi đến nơi thì thấy anh Hai Ngạc, con trai tưởng bác Bảy Bính và viên sĩ quan Mỹ đang hô hét đám binh lính, cũng gần vài trăm lính quận đang đứng chật cả đồng làng nơi có những xác chết của đám lính vốn là những trai làng và dân làng thì đang vây quanh những xác chết, mùi máu, và tiếng gào khóc, mười lăm trai tráng làng tôi, của cả bên lính quận và  bên lực lượng kháng chiến ở trên núi đã ngã xuống trong cuộc đụng độ trên đồng làng trong đêm, cũng gần mười năm mới gặp lại nhưng tôi không thể nào quên gương mặt có vẻ quí phái ấy, anh Hai Ngạc con bác Bảy Bính đối với tôi buổi ấy như một ngoại lệ trong nghĩ ngợi, như thể bỗng nảy ra từ chốn cày cuốc một con người quí phái, sang trọng, rồi bỗng bỏ làng đi biền biệt, gần mười năm mới quay lại đứng trước bầy đàn cũ của mình với thân phận người sĩ quan mang trong mình lý tưởng quốc gia, đại úy chỉ huy trưởng lực lượng quân sự của quận sở tại,  bà con hãy thôi khóc thôi, tôi là Trần Ngạc con trai Trần Bính làng ta đây, gần mười năm chúng ta mới gặp lại trong cảnh đau thương này, những người con ưu tú của làng ta đã chết vì súng đạn của bọn cộng sản hiếu chiến Nga, Tàu, chủ của đámViệt cọng trên núi, chính là biết trước sau gì bọn chúng cũng đánh phá chúng ta nên Trần Ngạc này đã sớm tìm đến với thế giới tự do, tổ quốc sẽ ghi công các bạn đã hy sinh hồi đêm, và tôi xin thề sẽ trả thù cho các bạn, xin thề… bỗng anh Hai Ngạc con trai trưởng bác Bảy Bính hô to, cánh đồng làng bỗng im ắng như thể mọi thứ đã bị xóa sạch, và, bấy giờ ở trong làng có tiếng hát, tôi nghe thấy có tiếng hát trầm đục như thể đang làm chậm lại suy nghĩ của tôi, con kiến tha hòn đất làm tổ, ông trời đổ mưa… nhất định là có kẻ thất tình nào đó ngang qua làng , ngâm nga, bỡi người làng tôi đâu còn lòng dạ nào để ca hát,  giữa lúc tôi đang nghĩ ngợi về bài hát rong khó hiểu tôi đã nghe thấy lúc ở đồng làng vào sáng ấy thì cha tôi lại ngồi dậy trên giường, nói, như thể là ông đang đứng trước cảnh tang thương, ta sờ vào đứa nào cũng thấy  máu, là thằng Khả, thằng Kỳ, thằng Mễ chứ ai, ngày ngày ra vào làng vẫn gặp nhau, chúng vẫn gọi ta là chú Hai Cứ, bác Hai Cứ, ta sờ chúng, và thấy chúng trừng mắt nhìn ta như muốn nói chúng con không muốn chết đâu, giọng nói của cha tôi yếu dần, lúc bấy giờ, trên đồng làng, sau lời anh Hai Ngạc con trai trưởng bác Bảy Bính, thân nhân của những người chết lại òa lên khóc, tiếng khóc như cứ loãng ra, loãng ra,  và tôi thì rơi vào thứ cảm giác như có ai cấu xé trong nghĩ ngợi của mình, tôi cứ thấy tôi như đang nằm ngủ lơ mơ giữa những gì đang diễn ra chung quanh cho đến khi nghe giọng nói lơ lớ của viên sĩ quan Mỹ, ông nói tiếng Việt kiểu không có dấu, các bạn Việt Nam thân mến, tôi biết là các bạn đang chiến đấu thật anh dũng cho lý tưởng quốc gia, các bạn là tiền đồn bảo vệ của thế giới tự do, thật lòng là tôi cố lắng nghe thử viên sĩ quan Mỹ muốn nói gì,  nhưng cứ thấy mình lại rơi vào trạng thái kỳ dị là đang bị cơn lũ cuốn đi, cái cơn lũ ấy xuất hiện trong tôi  đúng vào lúc anh Hai Ngạc con trai trưởng bác Bảy Bính ôm hôn viên sĩ quan Mỹ vẻ thắm thiết và nói ra những lời tôi đoán là những lời cám ơn bằng tiếng mẹ đẻ của viên sĩ quan Mỹ tôi không biết nghe tiếng Mỹ nhưng nghĩ chắc là cũng lơ lớ như khi viên sĩ quan Mỹ nói bằng tiếng Việt, nhưng cha tôi đã ngồi bật dậy trên giường, nói như thật, ta đã xông tới chỗ con trai trưởng ông Bảy Bính phải không, tại sao các ông chỉ đem xác lính quận mà không đem xác lính trên núi đi bỡi chúng nó đều là trai tráng làng này, do ta hét lên, nên thằng con trưởng ông Bảy Bính đã bắn vô đầu ta mấy phát súng nên ta đã ngã xuống chết, sự thật là người ta đã kể chuyện sáng hôm ấy cho cha tôi nghe, có rất nhiều người đến nhà kể cho ông nghe, và giờ thì ký ức trong cơn say của ông lại thuật lại lần nữa với  ông, chuyện quận mang những xác chết này đi và bỏ lại những xác chết kia là thật, còn chuyện con trai trưởng bác Bảy Bính bắn cha thì không có, tôi cố mô tả cho thật  rõ ràng, cha tôi chỉ nhìn tôi im lặng, cũng không biết là ông có tin lời tôi hay không,

 

***

 

kinh văn đạo Ruộng của chú Năm Trữ tôi có chỗ như thể  cắt nghĩa về tồn tại, đám chủ của các xứ sở lớn nhỏ trên mặt đất cào cấu, nhào nặn con người, đủ cách, thế giới luôn phải đối mặt với những rắc rối ngu xuẩn, con người không còn có thì giờ để chuyện trò nhau thì làm sao có thể  làm nên cuộc quật khởi giành lại chỗ đứng vốn đẹp đẽ của mình trong trời đất,

 

***

 

tôi tả mùa thu trong ký ức những thứ mà một người ăn nói ít oi nhất ở làng tôi cũng có thể nói được, thực ra chẳng ai nói gì khi đám cây lá trong vườn bắt đầu úa rụng, mùa giống như một người thân đi xa rất xa đến độ chẳng ai còn nhớ rồi một hôm lại trở về, bước chân khua động đâu đó, một chút mùi, hay tiếng, hay đấy chỉ là phần kéo dài ra trong nghĩ ngợi vô thức của một người, mẹ tôi và những người phụ nữ trong làng bắt đầu gom những lá khô trong vườn vun thành đống ở đâu đó, rồi mùi un lá khô bốc lên đây đó trong làng, thứ khói thơm mùi vĩnh cửu, bỡi cứ mùa thu un lá khô là lại nghe thấy mùi thơm ấy, bỡi mọi người là làm cùng một cách, cho thóc vào chiếc nồi đất, đậy kín vung, rồi đặt vào cái ang nhỏ cũng bằng đất, rồi cho lá khô vào ang cho đến khi phủ kín hết  nồi thóc, và đốt lửa lên, mùa thu thì cho lũ gà ăn thóc luộc để cho lũ gà con chóng lớn và lũ gà mẹ thì kết thêm trứng, nhưng không ai nói mùa thu thì cho lũ gà ăn thóc luộc, khi thấy lá trong vườn khô rụng và nắng trên bầu trời diệu đi và như có chứa chút buồn bã thì người ta nghĩ đến việc cho gà ăn thóc luộc, và mẹ tôi bảo cha tôi cái rèm sặt chỗ cửa thông thương giữa nhà trên và nhà dưới đã cũ quá, phải thay, cha tôi nói sẽ bảo anh Hai Hợp tôi vào núi Tượng chặt sặt để làm rèm cửa mới, mùa thu thì cây sặt trên núi Tượng đã già, nhà nào cũng nghĩ đến chuyện thay rèm cửa, có vẻ tạo hóa đã nghĩ ra cái giống cây thân nhỏ như chiếc đũa, suôn, cao vút và rổng ruột để tặng người làng tôi làm rèm cửa, mùa thu, tôi và lũ bạn cùng lứa trong làng lùa bò vào rừng núi Tượng thả ăn cả ngày, lũ bò gặm cỏ dưới những gốc cây rừng tái sinh, bọn tôi thì chặt bông sặt làm cờ cho những cuộc khởi nghĩa tưởng tượng để chống lại những vị thần núi chuyên làm ra những cơn mưa rừng bất chợt [ mưa mà đổ xuống giữa trưa thì lũ bò chúng tôi bị cảm lạnh hết] còn anh Hai Hợp tôi và những người lớn khác thì chặt thân cây sặt già đem về làm rèm cửa, mùa thu, đàn ông ngồi cắt cây sặt già thành những lóng ngắn, đàn bà phụ nữ thì dùng chỉ xâu chúng lại thành giây để kết làm rèm, nhưng không ai nói mùa thu thì làm rèm cửa sặt, khi thấy bầu trời trên đầu có vẻ buồn bã, nắng ít đi, và đã gần trưa mà gió núi Tượng vẫn còn nghe lành lạnh thì biết là sặt trên núi Tượng đã già, và người ta nghĩ đến chuyện thay rèm cửa mới, thay cái rèm cửa bằng sặt núi Tượng, hay cho con gà ăn thóc luộc, hay đêm nghe thấy tiếng con dế như buồn hơn, những thứ như thế như thể làm cho con người thấu hiểu đất trời hơn, mùa thu là thế, nhưng những thứ như thế là không chịu nổi tiếng súng và xác người chết trong làng,

 

***

ông già khốn khổ ấy cứ muốn cùng cha tôi dắt nhau bước trên đoạn đường còn lại của cuộc đời hai người và luôn miệng nhắc về quá khứ của mình với thứ ngôn ngữ rặt mùi cách mạng, cái quá khứ có vẻ quá vẻ vang của ông cứ giống như cánh chim báo bão, tôi cứ có cảm tưởng bác Bảy Bính đang bay, ông Cứ có nhớ thời chúng ta ăn cơm độn sắn, tập bắn súng gỗ, bước một hai trên đường làng, bọn chúng ta đang làm nên lịch sử mà ông Cứ, nhưng làm thế nào để có ngày mọi người bình đẳng nhau về cơm áo … ông già khốn khổ ấy lại nhắc thuở quê tôi tham gia cuộc kháng chiến chống người Pháp thực dân, những người lớn ngày nào cũng tụng đọc câu kinh kháng chiến, còn lũ nhỏ bọn tôi thì đêm đêm tụ tập lại để nhảy múa ca hát,  buổi sáng mùa thu có vẻ êm ả như thể chẳng dính dáng chi đến cuộc xung đột lịch sử ác liệt đang diễn ra trên xứ sở chúng tôi, cha tôi, như vẫn còn ảnh hưởng cơn say hôm trước, nhìn người bạn già với ánh mắt chia xẻ, nhưng thật ra là ông vẫn đang cố thủ trong thứ học thuyết trốn đời của mình, tôi biết là cha tôi không còn muốn để ai nhìn thấy ông, trong chốn thâm sâu ý thức của cha tôi dường ông chỉ muốn dừng lại ở sự chắc lọc, chỉ giữ những gì làm vui phần đời còn lại, buổi chiều hôm ngồi ngắm hoàng hôn đang xuống trên đồng làng trước nhà nghĩ đến mẹ tôi cả đời vất vả với đất quê, hay đêm đến chọn tiếng con dế nào rôm rả nhất để nghe, chỉ một chút vậy thôi để thấy yêu phần đời còn lại của mình hơn, uống một chén cho ấm bụng ông Bính, cha tôi lại phá giới, mời bác Bảy Bính một chén là cha tôi cũng phải uống một chén, bầu trời thu như đang trút xuống mặt đất những thứ chi tiết bí ẩn của mùa, cái buồn bã thì chỉ cảm nhận được bằng cảm xúc riêng tư, nhưng cứ như có bàn tay ai đó vừa lấy đi cái nóng nung của mùa hè và thêm vào đó chút lạnh heo may, mùa thu thật sự đến rồi, nhưng tôi biết hai con người có hai thứ cách thức đi lại giữa trần thế  như đang muốn loại bỏ một cách không thương tiếc những gì là ích kỷ nhỏ nhen bằng cách nhờ vào  chút men rượu để tiếp sức cho mình, sáng hôm ấy  ông Cứ có nhìn thấy thằng con phản bội của tôi hay không, bác Bảy Bính đột nhiên hỏi, tôi biết là bác ấy sắp trút bớt cho cha tôi nỗi thống khổ của mình, người con  trưởng của bác Bảy Bính là nỗi thống khổ của bác ấy, lúc tôi ngồi chung chiếu với lũ nhỏ cùng lứa trong làng ở các cỗ làng ở đình làng thì anh Hai Ngạc con trai trưởng bác Bảy Bính đã có thể  bàn chuyện quốc sự ở chiếu người lớn, tôi không còn nhớ, với lại bấy giờ nghe nhưng chẳng hiểu những gì anh ấy nói, chẳng hạn, không hiểu sao khi người lớn nhắc chuyện xưa ông hương kiểm Tú cha chú Đạc xã trưởng đã đánh chết dân làng là chuyện quốc sự, đất nước tôi vừa chia đôi theo hiệp định Giơ ne, những người tham gia kháng chiến chống Pháp ở làng tôi còn chuẩn bị việc tập kết ra miền Bắc thì anh Hai Ngạc đã bỏ làng đi biệt tích, thằng con trai trưởng ông Bính vô nam làm chính trị chứ đi đâu, thì cũng chỉ nghe người làng bàn tán, không biết là gia đình bác Bảy Bính có biết tin tức gì về anh Hai Ngạc hay không, đùng cái, anh ấy trở về trong bộ áo sĩ quan quân đội quốc gia với quân  hàm đại úy và người vợ xinh đẹp nói giọng miền nam, không phải trở về làng, mà về ngồi ghế chỉ huy trưởng lực lượng quân sự quận sở tại, tất cả những chuyện ấy cũng chì nghe nói đi nói lại bỡi chưa có người làng nhìn thấy mặt  anh ấy mãi cho đến cái buổi sáng sau đêm hai bên bắn nhau và bỏ xác trên đồng làng người làng mới nhìn thấy Hai Ngạc con trai trưởng bác Bảy Bính đã cùng với viên cố vấn Mỹ dẫn cả mấy trung đội bảo an về làng, tất nhiên sáng hôm ấy bác Bảy Bính đã không đến đó nên không biết cha tôi cũng không đến đó, thằng con phản bội, đấy là cách gọi người con trai  khác chí hướng mỗi lần bác Bảy Bính sang than thở với cha tôi về nỗi bất hạnh của mình, vợ chồng tôi đã sinh nhầm thằng con phản bội quê hương xứ sở ông Cứ à, nhưng không phải, chính là chính quyền Sài Gòn theo Mỹ đã làm hỏng nó, lần này bác Bảy Bính có những lời lẽ gắt gỏng hơn những lần trước, cha tôi không dấu được vẻ lo lắng, ông Bính có nói quá hay không, cha tôi nói, và buông tiếng thở dài, bấy giờ, trong cuộc xung đột lịch sữ đang diễn ra nơi xứ sở chúng tôi, việc bác Bảy Bính sang nhà tôi nói chuyện thời cuộc với cha tôi là việc hơi ngoại lệ, tôi lắng nghe hai người trò chuyện và cứ thấy như có hai cái bóng mây hiện ra giữa bầu trời mùa thu không vui,

 

***

 

kinh văn đạo Ruộng của chú Năm Trữ tôi có chỗ như sấm ký, nhưng đọc đi đọc lại  thấy chẳng giống sấm ký chút nào, đấy là chuyện của đám chủ nhân các xứ sở lớn nhỏ trên mặt đất,  dường chúng cố thêm râu thêm tóc, cho lạ hẳn đi, để bước ra khỏi loài giống mình, có người bảo thế là  con thú trong những con người ấy đã trườn qua khỏi trái tim, sở thích lớn nhất, hay cái yêu mến nhất của bọn chúng là thứ mùi ngai ngái, hình như là chúng rất mê thứ mùi ấy, có đứa ngồi ngây ngưởi cả năm này sang năm khác để ngửi cái mùi ngai ngái như mùi đất thiu ấy, đã sụp đổ hơn mấy chục nghìn năm mà xương cốt rã mục của đám chủ nhân những đền đài ấy, là Ur, hay Babylon, hay Catharge, hay Qin, hay Han Ch’au…  vẫn còn bốc lên thứ mùi ngai ngái như mùi đất thiu,

 

***

nỗi thống khổ nơi mặt đất như thúc giục con  người dựa dẫm vào những thế lực siêu nhiên, các vị thần thánh cứ giống như những chiếc phao, tạm thời thôi, nhưng con người trong cơn khốn khó cứ muốn bước lên chốn đó, ảo ảnh về sự cứu độ như giấc mơ, vô thức, và cấp thiết, cứ hiện ra vẻ vững chắc của nó, rồi vụt mất, rồi lại hiện ra, cuộc đeo đuổi cái không thể luôn được biện minh bằng những lý lẽ có thể, đình làng tôi bị pháo bắn sập vào tháng ba âm lịch, đúng kỳ xuân tế,  đúng vào dịp tháng ba cúng cầu an của làng, tai họa ập đến quá bất ngờ, không còn ai còn lòng dạ để nghĩ làm cách làm sao thực hiện được thứ văn hiến nghìn năm, đình làng sập thì tế thần ở đâu, có thể các vị thần thánh đã phải vất vả  trong chuyến đi suốt từ mùa xuân những trái pháo làm tan hoang quần thể cư trú của  thần để bước vào mùa thu, lại đến kỳ thu tế của làng, thằng cha Ngộ hãy đi nói với bà con trong làng kẻ ít người nhiều để cúng thu chứ thôi luôn hay sao, bác Tám Bảng bỗng rất hào hứng trong chuyện tế thần, bác Tám Bảng đối với người làng tôi cứ như cái bóng to lớn luôn tỏa lên làng xóm, sợ ông không cho vay tiền lúc túng quẩn, với lại giữa buổi thù  hận ngút trời mà cái uy của bác ấy ở trong làng là rất lớn, bác Tám Bảng  vừa là cậu ruột của chú Đạc xã trưởng của xã lại còn có ba con trai theo cách mạng, trong buổi chiến tranh không biết sống chết ra sao ai cũng muốn cầu nguyện thần thánh, nhưng chẳng có người làng nào dám đứng ra làm cuộc triệu tập như bác Tám Bảng, mùa thu, cái góc văn hiến tưởng mai một  bỗng được khôi phục, chuyện làng sắp tế thu có làm cho tôi vui một chút dù ông hiệu trưởng trường tôi dạy đã  chính thức cho tôi nghỉ dạy với lý do vì tình hình chiến tranh lượng học sinh giảm nên lượng thầy giáo của trường cũng phải giảm, cha tôi góp một vò rượu, và cáo bệnh không ra làng được, tôi phải bảo vệ cho cuộc ẩn cư của ông bằng cách bịa ra cha tôi bị bệnh trĩ, căn bệnh chẳng ai nhìn thấy được, bác Bảy Bính không đến, chỉ nhắn nhe với những lời lẽ thân tình nhưng rặt mùi cách mạng: Bảy Bính tôi không đến được vì đang buồn thằng con bất trung bất hiếu, với lại giờ là lúc nào mà còn cúng thần, chú Đạc xã trưởng cũng không đến, chỉ cử người đến thông báo cho mọi người rõ, cuộc tế thần có xảy điều chi thì xã không chịu trách nhiệm, mùa thu ấy các vị thần đang cư trú nơi làng tôi chắc hẳn rất vui vì đã có nơi chốn để quay về, một gian lều bằng vải được dựng lên bên trên đống gạch đổ nát của đình làng cũ, rồi, dù khó khăn làng cũng sắm được một con heo cả tạ, trong lúc chú Năm Trử tôi đọc văn tế thần, lũ nhỏ trong làng, cũng giống y như thời thơ ấu của tôi, tâm trí  chúng để hết vào chỗ con heo đã được nạo lông mổ bụng đang đặt nằm nơi bàn thờ thần uy nghi được đặt ở bên dưới mái lều vải,  bấy giờ đầu óc bọn nhỏ chúng tôi cứ nghĩ đến cháo đầu heo, xáo lòng heo, cỗ làng, tôi đứng lắng nghe bài văn tế của chú Năm Trử và thấy nhớ ghê gớm buổi ấu thơ ăn cỗ làng, bài văn tế của chú Năm Trử tôi cứ như thứ thần học hiện đại có pha chút hoài nghi:

 

giữa lúc thần gặp khó khăn trong việc cư trú, lũ chúng con, đám sinh linh thấp cổ bé họng, kẻ con gà, người chén rượu, thức ăn của mặt trời, sau khi ngó trước ngó sau, xin đem đặt ở bên lề cuộc thong dong vạn dặm của  thần một túp lều tạm, một nén nhang tạm, chỉ gọi là để thần dừng chân chốc lác, nhìn ngó trần gian, giữa lúc thần gặp khó khăn trong viêc cư trú thì ở mặt đất loài người  hận thù nhau, chém giết nhau, đang rã tan văn hiến bầy đàn, giữa lúc thần chưa rõ ai giặc ai không giặc, lũ chúng con, đám sinh linh thấp cổ bé họng xin đem đặt bên lề cuộc thong dong vạn dặm của thần những lời kêu cứu 

 

rồi thứ cỗ làng có vẻ đầy ma lực thời thơ ấu của tôi cũng đã diễn ra, cái cách cả làng xúm lại để biến con heo đã được tế thần thành những xáo, những luộc, những quay, những nướng, những khói bếp làm cay mắt, những tiếng cười hết cỡ, thứ thực đơn rặt chất làng được hình thành trong  cảnh trí như thế là thứ hành trạng đầy ma lực của một bầy đàn, đã là thời dân chủ, nên không còn chia ra cỗ người lớn, cỗ  trẻ nhỏ, dưới bầu trời mùa thu không nắng, dù là đang giữa xế trưa, cái bầy đàn người làng tôi ngồi thành hai hàng dài đối mặt nhau trên dấu tích của tổ tiên xưa, không phải ăn uống, mà là hành lễ phồn thực với trời,

 

***

 

đây là phút giây tôi như được mẹ sinh ra lần thứ hai, không phải để cất tiếng khóc chào đời như lần đầu tiên, mà để thấy quả mẹ tôi là người đã sinh ra tôi, bà ngồi lặng lẽ bên cơi trầu như thể ai đó đã tạt nên một hình tượng vô cùng hoàn chỉnh lúc bóng tối đang tràn vào căn nhà, thời điểm để cho con người ta dễ nhận ra rằng trời đất là đang dịch chuyển, nhưng không phải tự dưng vào lúc bóng tồi tràn vào căn nhà, thường là lúc người làng tôi biết rằng đã đến lúc nghỉ ngơi sau một ngày vất vả đủ thứ, mẹ tôi lại đem cơi trầu ra vừa têm trầu vừa nghĩ ngợi, bấy giờ tôi chẳng có chút mảy may ý định nào để trò chuyện với mẹ , thường, vào những hôm khác, vào lúc bóng đêm đang phủ xuống như thế là tôi thường hay chuyện trò với mẹ, bấy giờ, một phần là tôi muốn để cho mẹ tôi được sống trọn vẹn với những phút giây đang đắm vào toàn bộ nghĩ ngợi của mình, nhưng chủ yếu là tôi muốn biết  giữa lúc ngồi một mình như thế giữa cái thời thế con người đang thù hằn chém giết nhau mẹ tôi sẽ biểu hiện thế nào, có thể là bà sẽ buông tiếng thở dài hay bật khóc trong bóng đêm, tôi biết, ngồi với cái cơi trầu [chắc là những bà mẹ khác trong làng cũng giống mẹ tôi là thích ngồi bên cơi trầu lúc bóng đêm đổ xuống] chỉ là cái cách để nghĩ ngợi được nhiều hơn, hay nghĩ ngợi được rõ hơn, cũng có thể chỉ là một chút ký ức, một tiếng vạc trong đêm đánh thức mẹ, nằm nghĩ đến cái cách làm sao sắm được bộ quần áo mới cho tôi mặc đi học giữa lúc lúa trên đồng làng mất trắng, cũng có thể là trong dòng ý thức của mẹ, toàn bộ cuộc đời cơ cực của bà lại hiện ra, từ lúc còn là cô gái còn cột tóc đuôi gà chưa hề có chút ý niệm làm mẹ nào cho đến lúc làm mẹ thật sự, mẹ là cả một cuốn biên niên sử về những cách thức chui ra chui vào những nỗi niềm cơm áo  ở bên dưới mái tranh cộng với một khối khổng lồ sức nặng sinh ra từ cuộc bầy đàn: nước phải có triều chính, mà triều chính lại phải sinh ra nếu không phải cái thông thoáng bầy đàn thì là trì trệ bầy đàn, một ông vua ngu nhảy vào cuộc trị nước,  hay cảnh làm xiếc tàn nhẫn trong những trò chơi ý thức hệ,  bấy giờ,  giữa thứ bóng đêm đang chập choạng đổ xuống ngôi nhà đã quá xưa cũ của tôi, mẹ tôi têm trầu, đưa lên miệng nhai, tôi trông thấy rõ từng cử chỉ của mẹ, chưa nghe tiếng thở dài của mẹ, hay là bà đang nghĩ ngợi về buổi cái chết của con người không còn theo luật lệ nào, thật ra, mẹ tôi chưa biết đấy là nội dung khốn nạn nhất của những cuộc xung đột lịch sử, vẫn chưa nghe mẹ tôi buông tiếng thở dài, hay là mẹ đang thử lắng nghe cái mảng đời ở bên ngoài ngôi nhà đang đóng kín cửa, có, tôi vừa nghe có tiếng vạc kêu, chỉ mấy tiếng rồi im bặt, ở bên ngoài ngôi nhà đóng kín cửa của tôi như đang có một thứ câm lặng kỳ dị nào đó, sự câm lặng của đá đang lây lan cuộc sống con người, hay trạng thái thoi thóp của sự thật, hậu quả của những thống trị sắt đá, đêm nay bình yên bỗng xen vào dòng chảy vốn bất an của một bầy đàn, lạ thật, ngay cả tiếng lũ côn trùng quen thuộc ngoài vườn cũng không nghe thấy, bấy giờ là mùa thu, nhưng tôi chẳng thấy có chút trắc ẩn  nào trong lòng, có gì đấy đang nén chặt lại nghĩ ngợi của tôi như thể đang chịu sức ép của cuộc dịch chuyển ồ ạt của mùa, vạn lần người đi…nắng đổ… lại thấy vang lên trong trí nhớ câu thơ không nhớ nổi,  đêm nay, những phút giây hưu chiến của xung đột lịch sử, hay tất cả chỉ là ảo ảnh kết tụ từ những mong mỏi cháy bỏng của một người đã chịu quá nhiều nỗi bất an, là tôi, vẫn chưa nghe mẹ tôi buông tiếng thở dài, nhưng tôi biết đây là phút giây mẹ tôi sinh ra tôi lần thứ hai để tôi biết thế nào là quan hệ giữa mẹ và lịch sử mẹ đang sống, thứ kết nối bao giờ sự yên bình cũng ít hơn nỗi sợ hãi,

 

***

rồi đêm xuống là mẹ tôi lại chờ, bà ăn trầu và đi lại miết ở trong nhà, tôi biết là mẹ tôi đang chờ thằng Lữa con cậu Năm Thực tôi, thằng Lữa phải trở lại lấy lương thực mẹ tôi mua giúp, nhưng bản thân nó cũng không biết lúc nào thì trở lại, nên đêm đến là mẹ tôi lại chờ,  tình yêu mẹ tôi dành cho thằng Lữa không kém tình yêu mẹ dành cho tôi, nhưng đấy không chỉ là mối quan hệ ruột thịt, đêm mẹ tôi chờ thằng Lữa,  người của mặt trận giải phóng, là chống lại chính quyền quốc gia đang cai quản bà, nếu chuyện bại lộ, mẹ tôi sẽ phải hứng chịu những hệ lụy vô cùng tệ hại, về chuyện này thì mẹ tôi biết rất rõ, cha tôi và tôi thì cũng chưa bao giờ bàng bạc với bà  về sự lợi hại trong chuyện này vì  sợ mẹ tôi lại sợ hãi, nhưng thực ra tôi biết cha tôi cũng như tôi là cảm thấy mình không có quyền làm như thế, rồi thằng Lữa con cậu Năm Thực  tôi đã trở lại, cứ tối đến là cha tôi lại rút vào phòng nhà trong, nghỉ ngơi, nên thường chỉ có tôi và mẹ tôi đón tiếp những người trong lực lượng kháng chiến vào nhà, mẹ tôi có vẻ rất bối rối vì lần này thằng Lữa lại dẫn thêm đồng đội của nó lại là những đứa con trai quen thuộc ở trong làng, các cháu cách mạng đã ăn uống gì chưa, mẹ tôi lắp bắp hỏi, bà gọi những đứa con trai quen thuộc trong làng là các cháu cách mạng, thằng Lữa là thuộc lực lượng của huyện đi lấy lương thực, còn đám con trai trong làng là lực lượng của xã đi vận động tuyện truyền về chủ trương đường lối  của cách mạng, đám lính giải phóng tuổi trẻ thì ngồi quanh bàn nước chỗ nhà cầu, nói, mẹ con tôi thì ngồi trên giường kê sát bàn nước, để nghe,  nhiệm vụ trước mắt của chúng ta là đánh đuổi đế quốc Mỹ, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thằng Nhường con chú Bảy Quợt ở xóm dưới nói, sau đợt học tập này chúng tôi tin tưởng hết thảy quần chúng chậm tiến đều thấm nhuần chủ trương đường lối của cách mạng, thằng Lai con bác Bốn Bửu ở xóm giữa bổ sung, điều bất ngờ đối với tôi lúc bấy giờ là chỉ một thời gian  ngắn lên rừng đám thằng Nhường thằng Lai vốn chỉ quen với chuyện cày cuốc bỗng trở nên những kẻ ăn nói lưu loát không kém mấy những nhà họat động chính trị chuyên nghiệp, đám thằng Lữa đi rồi tôi mới nghe thấy tiếng ho khục khắc của cha tôi ở nhà trong, mẹ tôi thì lên giường  ngồi, nhai trầu, chắc là bà đang nghĩ ngợi rất nhiều về lũ thằng Nhường thằng Lai con ông Quợt ông Bửu, có thể  là mẹ rất tự hào về sáng kiến của mình khi gọi đám con cháu quen thuộc trong làng  là các cháu cách mạng, đêm tháng sáu hun hút những nghĩ ngợi màu tro than của một người như vừa rời khỏi cuộc va chạm khốc liệt với hiện thực cuộc sống là tôi, thì ra tôi vẫn là anh quần chúng chậm tiến của cách mạng, vậy mà ông hiệu trường trường tôi lại đuổi việc tôi vì cho rằng tôi đang đi ngược lại lý tưởng quốc gia của ông, ông hiệu trưởng vẫn nghĩ tôi là người của lực lượng kháng chiến ở trên rừng,

 

***

 

vậy thì tôi là ai, một mảnh trần thế treo giữa một dọc dài định nghĩa, con người định nghĩa về mình, lịch sử cứ như thứ phép thử về cách định nghĩa về mình của con người, và vẫn cứ mờ mịt những chiều thu lá rụng tiếng cựa mình của những luân hồi, không thể kết thúc, và không thể không bắt đầu, có một lần bắt đầu, xa lắm, xa như trong giấc mơ không khúc cuối, chỉ mới là cái bóng của ý thức, nhưng người là sự đánh thức thời gian, cũng không phải đánh thức mà đứng lên từ lặng lẽ, những ý niệm lã tã rơi, từ hư vô tuông chảy những giọt tâm tư chưa có hình hài, và người cúi xuống, nhặt lên, và cất cao giọng nói, một cuộc trôi bắt đầu, cuộc trôi đến tận cùng cái tận cùng, thì chẳng phải hay sao, nếu người không cất cao giọng nói mãi mãi toàn thể là niềm câm lặng, bấy giờ là một sáng thu mà người chưa biết, có lá úa trên cây, buồn hay vui người cũng chưa biết, chỉ thấy có gì khác lạ ở trong dòng chảy của máu trong thân thề người, như trong những giấc mơ, đúng hơn là trong tiếng sơ khai của ý thức, người đã nhìn thấy vào những lúc ngồi ngắm con vượn già cõng con ngang qua ngõ hang động, hay những lúc nhìn thấy mặt trời dần xuống ngọn núi trước mặt, thì chẳng phải khi dùng hòn đá nhỏ kẽ lên hòn đá lớn những gì người nhìn thấy là lúc người đang mơ hay sao, nhìn những gì vừa kẽ lên vách đá người bắt đầu thấy run sợ trước cái toàn thể, bao la và sầm khuất, và, dường trong thanh quản người có tiếng hát, khúc ban sơ, hay là cuộc bắt đầu của viễn mộng, người cứ thấy niềm kinh sợ khuấy động mình, cứ muốn thò tay vào đêm tối tóm lấy những bí mật ẩn dấu trong tiếng cựa mình của đá hay trong dấu chân của những loài đã bị hủy diệt tự lúc chưa có giọng nói của người, và trong dòng trôi vô tận, bỗng một hôm người nhìn thấy cách trò chuyện với lũ thú và cây cối trên rừng, niên đại của những cuộc tình, lũ ngươi mãi mãi là bạn của ta, người hét lên, lũ voi bắt đầu lật lại những trang sử về loài gống mình đem đặt giữa ánh trăng nơi ngõ hang động, và lũ chim, hết thảy loài chim trong dòng sinh tồn của loài giống bay tụ tập về trước hang động của người, cuộc kể chuyện của chim bắt đầu từ đó, nhưng từ chốn trăng treo ngõ động con người đã đi quá xa sự mong ước của mình,

 

***

 

rồi tôi cũng sắp xếp được công việc cho mình, giúp mẹ tôi chạy chợ, và phụ cha tôi chưng cất rượu, tôi là anh thầy giáo đang giữa năm học bị đuổi việc bỡi ông hiệu trưởng trường tôi đang dạy đã chuyển tôi từ danh sách thầy giáo của trường sang danh sách những người đối đầu với lý tưởng quốc gia của ông, ông hiệu trưởng cho rằng tôi là người của mặt trận giải phóng bỡi theo ông những người đang sống nơi những vùng quê có sự hiện diện những người trong mặt trận giải phóng như vùng quê tôi đang sống thì đều là người của mặt trận giải phóng, tôi vừa đau, vì bị đuổi việc giữa niên học như thế thì không thể đi xin dạy ở bất cứ trường học nào, vừa buồn vì cách nhìn ích kỷ của ông hiệu trưởng về tổ quốc đang trong cơn phân rã, với ông, phần tổ quốc nào có sự hiện diện của những người trong mặt trận giải phóng thì không thể có người đủ tư cách đứng trên bục giảng, nhưng dù ai nói gì, hay dù ai cố dẫm đạp lên tổ quốc tôi, hay hay cố làm cho tổ quốc tôi phân rã thì người, tổ quốc tôi,  vẫn là nhà khảo cổ tuyệt vời của tôi, người đã xới lên những hòn đất nghìn năm nơi đồng làng tôi, để đấy, con chim chiền chiện tha rác lót ổ trên hòn đất, tôi nấp nơi bờ mẫu rình xem con chiền chiện lót ổ, buổi chiều, tuổi thơ tôi phát hiện ra rằng giữa người với tôi và lũ chim chiền chiện là một mối tình thâm sâu, buổi chiều ở đồng làng, nấp ở nơi bờ mẫu, thấy con chiền chiện con đứng chờ mẹ nơi tổ đất tôi thấy yêu mẹ mình ghê gớm, chính là tổ quốc tôi, người đã làm cho mẹ tôi nửa đêm thức giấc cài lại nút áo cho tôi, tuổi thơ tôi là một chuỗi ngày lơ đãng, đêm ngủ quên cài nút áo, không biết đêm nằm ngủ trên chiếc chõng tre của mình là nằm trên đất đai của người, tới tuổi đi học, cắp sách đến trường, khi đọc bài tập đọc đầu tiên về tổ quốc tôi mới vỡ ra giữa người với tôi và toàn thể những đứa trẻ đang cắp sách đến trường như tôi là một bài thơ dài người viết sẵn và để đấy: có người hỏi vì sao con chim biết hót, người đáp như một nhà hiền triết,  con chim hót thì đất đai kéo dài thêm mầu mỡ, lại hỏi vì đâu lại có ngày có đêm, đáp, khởi đầu là hư không, gió mưa rót vào đấy, lặng lẽ với náo nhiệt rót vào đấy, cái khoảng trống không chịu đứng yên, giãy giụa, một chặp thành ra khác hết, cái hay của đất trời là tự phân ra sáng, tối, phân ra minh triết và ngu xuẩn, người lại hỏi kẻ đang chất vấn mình, bạn có biết tổ quốc là sao, không hỏi tổ quốc là gì, mà hỏi tổ quốc là sao, thấy tôi vẫn buồn bã về chuyện ông hiệu trưởng trường tôi đang dạy nghĩ ngợi không đúng về tôi và về quê tôi, người lặng lẽ sưu tập hết thảy trí tuệ lớn nhỏ của loài người  vốn được chép trong các sách vở, có thứ đã quá cũ, tuổi cũng bằng với tuổi của đất đai, người đem bày tất cả ra đấy, và nói với tôi: bạn hãy hỏi chúng thì biết, người nói với tôi y như những lúc tôi buồn bã mẹ tôi nói với tôi, những vỗ về, như cơn mưa mùa hạ, vậy mà giờ vẫn có kẻ nói về tổ quốc tôi những lời không hay,

 

***

 

rồi chẳng hạn như buổi sáng sớm bác Tám Bảng ra ngõ đứng chửi những người không để bác ấy mua lúa non, bộ nó muốn chết sao, nó là ai, không biết, chỉ bấy nhiêu cũng đủ làm rúng động xóm làng, bỡi sau đó, có thể những lời ấy được dịch ra khác đi, và mang lại những hệ lụy khôn lường, thời con người gần như nguy hiểm đối với nhau, lỡ nói ra một lời thành thật về phe nọ hay phe kia, sẽ mang nỗi lo sợ cho đến chết, ở làng tôi buổi ấy chỉ một số rất ít người dám nói ra những nghĩ ngợi của mình về thời cuộc, chú Đạc xã trường, hay anh Hai Ngạc con trai trưởng bác Bảy Bính đương kiêm chỉ huy trưởng lực lượng quân sự quận sở tại, những người đương là viên chức trong chính quyền quốc gia, phải luôn tỏ ra cho mọi người thấy lý tưởng quốc gia của mình là lẽ đương nhiên, nhưng dân thường như bác Tám Bảng, chắc là ỷ có con cháu có vai vế trong cả chính quyền quốc gia lẫn mặt trận giải phóng, nên đã có những lời lẽ nặng nề với những người không làm vừa lòng bác ấy, buổi mạng sống con người có vẻ quá mong manh, cái khúc sử như thể niềm hoang mang của thế kỷ, buổi sáng, tôi chở mẹ tôi và thùng rượu gạo [do cha tôi nấu] ra chợ làng, nán lại một chút, thử nghe mấy người bán  đường, bột, gạo, nếp ngồi cùng chỗ với mẹ tôi nói gì về đất nước, nhưng chỉ thấy bọn họ khi thấy tôi thì lặng lẽ nháy mắt nhau, thứ ngôn ngữ tiền sử bỗng trở nên thịnh hành nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, và tôi thì cũng thấy mình nên lặng lẽ nháy mắt với những bà chị bà mẹ bán đường, bột, gạo, nếp, rằng, đây là buổi chỉ để nghe, để thấy, và đừng nói chi cả, như thể sương giá phủ đầy trời, như thể cứ nghe vang lên những lời nhắc nhở, bạn không còn nhớ cảnh ông Đạc xã trưởng bắn liền tám phát súng vào đầu ông Tám Hổ hay sao, bạn không còn nhớ cảnh người của mặt trận giải phóng đã xử tử thím Ba Quỳnh ngay tại sân nhà thím ấy hay sao, vậy thì những sử gia, những triết sử gia, sẽ nghĩ thế nào về bộ tộc họ Trần của tôi, tọa lạc trên khu vườn rộng mênh mông do ông cố tôi để lại, ở cuối vườn là gia đình chú Năm Trữ em ruột cha tôi, thực ra bấy giờ gia đình chú Năm Trử tôi chỉ gồm mỗi chú ấy, cứ sập tối thì nghe vẳng lại từ nơi ấy tiếng cầu kinh của ông đạo ruộng, thật buồn cười ông đạo Ruộng lại là chú Năm Trử của tôi, kinh văn đạo Ruộng của chú tôi như thể tiếng kêu lạ trong những tiếng kêu hiện sinh, và tiếp đó là tiếng la khóc của lũ con anh Hai Hợp tôi, nhà anh Hai Hợp tôi ở sát nhà chú Năm Trử tôi, sáu đứa con với vợ chồng anh tôi cả thảy là tám miệng ăn, sau buổi chiều đùa giỡn với lũ nhỏ hằng xóm [lũ con của anh chị tôi chỉ mới đạt tới trình độ lao động đùa giỡn] sáu cái dạ dày trống rổng đòi hỏi một lượng lớn thực phẩm, nhưng ở nhà anh chị tôi bấy giờ thì việc ăn uống còn thiếu thốn lắm, ăn xong vẫn còn thấy đói, bọn con anh tôi lại bèn gây chuyện nhau, chiến tranh cơm áo là luôn diễn ra  trong đám con của anh Hai Hợp tôi, thành ra đầu óc anh ấy chỉ nghĩ đến cách làm sao cho lũ con no đủ, thành ra chuyện dân tộc đất nước trở thành những thứ xa xỉ đối với anh ấy, mẹ tôi thì sau khi san sẻ được chút gì cho anh tôi chỉ còn biết thở dài, mẹ làm sao còn đủ sức bảo bọc đứa con trai đã có gia thất riêng luôn gặp khó khăn trong chuyện cày cuốc [pháo  dưới quận nã lên đồng làng tôi mười lần thì hết chín lần rơi trúng ruộng của anh tôi, cả nắng hạn lẫn chiến tranh đều gây khó khăn cho anh ấy] ở nhà tôi mẹ tôi thường hay buông tiếng thở dài, còn cha tôi dường chỉ còn đủ sức cố thủ trong thứ triết học lánh đời bằng cách ngồi canh những giọt rượu chảy ra từ cuộc phân rã của cơm gạo, tôi cứ nghĩ ngày bộ tộc họ Trần  tôi không còn trên đời này thì thấy buồn ghê gớm, đấy là lúc ở khu vườn ông cố tôi để lại chẳng còn ai nghe thấy bác Tám Bảng sáng sớm ra ngõ đứng vói sang, bộ lũ bay muốn chết sao,

 

***

kinh văn đạo Ruộng của chú tôi có chỗ gập ghình, bi thương, kiểu con ngựa chạy đường dài, vừa chạy vừa hộc nước dãi ra, xiếc nước Khạ đã tràn vào làng thì  như thể cơn gió bảy ngọn cứ làm dấy lên trong tâm trí con người những thù địch, xiếc Khạ, chất kích tố, cái làm cho cái chỉ là một chút sơ xuất nhau trở thành cái không thể tha thứ cho nhau, cứ thấy như mang trên vai ngọn cờ đầu của thời đại, những người làng  có chút máu me xiếc Khạ thì gào thét, dãy giụa, làm như thể không còn chịu đựng nổi, không còn sống nổi trong cái cuộc đời trước khi có cơn gió bảy ngọn họ vẫn sống, ồ, cái văn bản viết bằng máu người, kinh văn xiếc Khạ, như đã làm thay đổi cuộc thế tục một cách mãnh liệt, bỗng, một người bấy lâu cặm cụi cày cuốc bước lên bục diễn, nói, như thể một nhà chuyện biệt về cách thức đánh đổ áp bức, làng cứ như đang toát lên thứ hình thù hoăn hoắc, vẻ lộng lẫy huy hoàng của tri thức mới, cuộc thoát xác nhanh chóng nhất trong chuyển động của sự vật, y như đang nhìn thấy từ chốn trên cao, thiên giới, cứ nhìn vào đấy, và nói, là chúng ta đang giải phóng loài người đấy, và nhiều lời chắc như đinh đóng cột, tương tự thế, lên bục diễn là nói ra những lời như thế, cuộc lập lại ngôn từ như thể một sách lược, một chiêu lược, khiến cho cỏ cây và  muông thú cũng phải nhuần nhuyễn những thứ con người nghĩ được, trầm luân là thứ phải bãi bỏ, nhưng ngay từ đầu người ta đã nhìn thấy xiếc Khạ mang trong nó thứ ảo tưởng chết người, thế là, tự nó, xiếc Hũa lại tràn vào làng, ồ ạt, phấn khích, à ra sầu muộn cũng là bản chất của con người, người ta thi nhau tụng đọc kinh văn xiếc Hũa, một cách nói lên sự bất đồng chính kiến, một lần nữa ngọn gió xiếc Hũa làm dập nát văn hiến cha ông để lại đang bị  cơn gió xiếc Khạ làm tả tơi, ở chỗ này người ta hô hoán hãy bỏ hết những cái cũ, ở chỗ kia người ta bôi mỡ lên trán, và  hát, cứ để cho con tim ta rung động,  những kẻ vừa có chút máu me xiếc Hũa cứ gào lên, và đó là luyện ngục trần gian, đúng rồi, lũ con trai con gái hợp nhau lại, tự làm cho đầu óc mình rối loạn, tự làm cho trái tim mình rỉ máu, hãy quay lên, quay lên, những bước nhảy hoàn vũ, đúng rồi, là nhảy dựng lên theo kiểu đường đi bất thường của các thứ trăng sao, có đứa tự kết thúc đời mình trong cuộc luyện ngục như một trò chơi mới mẻ của con người, những người thấy ra cuộc trầm luân đang ngự trên xứ sở, khóc thầm, và sợ mất thế đứng trên mặt đất, đám chủ các gánh xiếc lớn trên thế giới tranh nhau rỉ tai đám môn đồ, những gánh xiếc nhỏ, kích thêm lòng thù hận giữa các phe phái, rốt cuộc, ở trong làng, đám ngoại nhân nghênh ngang đi lại, và những người làng thì bắn nhau,

 

***

mùa đông cứ như dè chừng trước cuộc mưu sinh của một bầy đàn mấy trăm năm vẫn chui ra chui vào ngôi làng dày đặc tiếng gà heo, bọn họ đang bức xúc chuyện gì chăng, hay cũng chỉ nỗi buồn rầu vì cuộc xung đột lịch sử, rồi đang mưa lại ngừng lại, hửng nắng, nhưng mặt trời vần cứ lờ đờ trong mây như thể muốn chia xẻ một chút gì đấy với bầy đàn người lận đận, mùa đông ở quê tôi cứ như là cuộc pha trộn giữa ý chí và do dự,  chỉ là tôi muốn để cho cảm nghĩ của mình can dự một chút vào cuộc nắng mưa ngẫu nhĩ, hay là trời sinh con chim bịp để kêu mưa, mùa nắng có thấy gì đâu, nhiều lắm là đêm nằm nghe con chim bịp rón rén  trở mình ở ngoài bờ rào, tôi muốn tả con chim bịp trong mối quan hệ có vẻ tiền định giữa con người, chim, và mùa đông, một thứ nét buồn cố cựu trang điểm cho nỗi cơ cực của con người, mùa đông có vẻ là chốn quyến rủ, chiều hôm, từ ngoài đồng làng trở về trong mưa, cha tôi gác cây cày lên hiên hè, ngồi ngắm thứ công trình làm bằng gổ núi, ông nghe chim bịp kêu, và sờ tay lên cái gộp lại của toàn thể trí tuệ nhân loại, khắc khoải, u huyền, đâu thể hình dung hết cuộc đồng hành giữa con người và trời đất, chỉ trích ra mỗi giọt mưa thôi cũng đủ thấy trí tuệ của hoàn vũ: cuộc chu lưu khổ ải của nước để biến thành những giọt dài  tương tư lớn nhất nối kết được các ý niệm rời rạc, mưa nối trời cùng đất, có thể, buổi ấy, giọt mưa rơi trên lá kích  thích khối tăm tối của ý thức xưa cũ, mới đầu là thấy được cái cách lật đất lên, rồi lâu lắm về sau mới thấy được cây cày gỗ,  tiếng chim bịp có vẻ đang gây bức xúc lắm trong nghĩ ngợi của một người vừa theo cây cày trên ruộng vừa theo chữ nghĩa trong kinh sách là cha tôi, đêm, tôi thức giấc, nghe tiếng con chim bịp trong mưa, như thể lời của non nước đánh thức được hết thảy những thứ đã ngủ quên trong nhận thức, có thể là đã quên tổ tiên xưa, những người mở đất, rừng hoang và thú dữ, con chim bịp kêu giữa ngọn khói chiều cất lên, mùa nước nổi, không phải, ở quê tôi chỉ có mùa nước lũ, nước lũ tràn qua những con mắt nhìn thấy cánh đồng lúa thay cho cánh rừng hoang, có thể là đã quên đất nước nghìn năm tiếng con chim bịp kêu chiều, mùa đông, con chim bịp cứ thấy bước chân mình dài theo bờ tre làng, tôi cứ thấy nhớ cuốn quốc văn giáo khoa thư tôi học hồi nhỏ ‘‘khi nghe tiếng con chim bịp kêu mưa thì biết là lòng đã tới, cứ đứng đó mà nhìn quê hương yêu dấu’’ thầy tôi đã dạy tôi cách nghe tiếng con chim bịp kêu mưa, mùa đông ở quê tôi như cứ dè chừng với cái bầy đàn đang buồn bã bỡi cuộc xung đột lịch lịch sử đang làm rối ren cả những ý nghĩ đơn giản nhất, có lẽ, đêm, chẳng còn ai còn lòng dạ để nghe con chim bịp kêu mưa,

 

***

người là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, tôi muốn trò chuyện cùng người giữa cảnh mùa đông gió mưa, nhưng gió mưa thì không thể làm cho con người ta buồn bực đến mức vậy, thì người cũng đã biết làng đang có người chết, sắp chôn, nhưng người cũng biết đây là thời chiến người làng có người chết ở tận các xứ xa, không thể tìm được xác, người ta chỉ báo tin về cho người biết là có người làng đã chết như thế, nhưng người cũng biết người làng có người chết mất xác ở trên rừng, có người ngã xuống ngay trên đồng làng mình, có người ngã xuống ngay trên sân nhà mình, người là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, chẳng lẽ người lại đánh đồng mọi cái chết là như nhau,

***

bác Tám Hổ gái quì trong vai trưởng tế, mẹ tế con mà, chú Đạc xã trưởng đọc điếu văn tới đoạn: thời chiến, mạng sống con người mảnh như sợi lạt, nước mắt đau khổ của trần gian nhiều như biển, thì bác Tám Hổ gái ngã quị xuống đất, vật vã, cả làng òa khóc, tôi cũng gắng lắm mới cầm được nước mắt, lễ truy điệu thằng Trù ở ngay gò thổ mộ của làng, thằng Trù là con trai của vợ chồng bác Tám Hổ, đi quân dịch năm trước, năm sau chết trận ở trong nam, đơn vị lính của thằng Trù đưa quan tài thằng Trù về quê bằng xe nhà binh đậu ở đường quan lộ, và người làng tôi đến đưa xác nó ra luôn gò thổ mộ của làng, ở làng tôi có tục chết đường chết sá thì không được đưa về nhà chỉ khâm liệm tại chỗ rồi đưa đi chôn, chết trận là chết đường chết sá, hãy trả lại chồng con cho tôi… sao lại giết hết cả chồng cả con của tôi… ông quốc gia ơi là ông quốc gia, bác Tám Hổ gái bỗng níu lấy áo chú Đạc xã trưởng, gào lên, thảm thiết, rồi lại gục xuống đất, lịm đi, cả làng lại òa khóc, tôi thấy chú Đạc xã trưởng rất bối rối, xin lỗi chị Tám hãy bớt đau khổ, chính là tôi rất có lỗi và chính quyền quốc gia cũng rất có lỗi với gia đình chị, ông xoay người, lắp bắp  những lời xin lỗi, nhưng không thấy nói đó là lỗi gì,  và bác Tám Hổ gái vẫn nằm dài ra đất, rên rỉ, nhưng đấy là chuyện của những người sống, cái chính là đưa thằng Trù về nơi an nghỉ cuối cùng, thấy chú Đạc xã trưởng cứ đứng xoa tay xin lỗi bác Tám Hổ gái hoài, chú Hai Ngộ chấp kích [tức người dẫn dắt cuộc an táng] gõ một hồi sanh dài, coi như lễ truy điệu đã xong, đến giờ đưa quan tài thằng Trù xuống huyệt mộ, mây đen kéo tới đầy bầu trời trên đầu, đừng nói đó là trời cảm động, chỉ là ngẫu nhiên, nay làng lại khuyết đi một người, ngẫu nhiên mây đen kéo tới khi làng đang khuyết mất đi một người, cùng với người làng, tôi vốc những nắm đất của làng phủ lên thằng Trù, vĩnh biệt em, đứa con trai làng đã chết trong thứ nhịp điệu tàn nhẫn của lịch sữ, tôi thầm nói với mình, và cứ thấy có gì đó không ổn, chính là thằng Trù đã chết cho cái chính quyền đã sát hại cha nó, tôi nghĩ, và vội vã dẹp đi ý nghĩ mà mình còn phân vân, còn hồ nghi có phải là vậy hay không, nhưng hình ảnh chú Đạc xã trưởng bắn tám phát súng vào đầu bác Tám Hổ cứ lởn vởn trong đầu tôi,                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                               

***

kinh văn đạo ruộng của chú Năm Trử tôi có chỗ nói về chuyện bang giao giữa các gánh xiếc trên mặt đất như một thứ tiết mục xiếc, thằng cha chủ đất Hũa mới đầu thì giả làm đàn em thằng cha chủ đất Khạ, thằng đó còn khát máu hơn cả thằng cha chủ đất Khạ, hắn đã bắn bỏ những người hắn không ưng ý để lấy máu viết cương lĩnh làm ăn của hắn đấy, hắn  nói với thằng cha chủ đất Khạ rằng, non sông bọn chúng ta  liền một dãi, rồi giả cúi đầu, nhận thằng cha chủ đất Khạ làm anh cả, anh đi cho mát cả nòi giống với đất đai, cái gánh xiếc của hắn đến mấy chục triệu người, các thứ chế độ trị nước trong lịch sử trị nước của thế giới hắn đều đem ra làm những tiết mục xiếc, rồi hai thằng cha chủ đất Hũa và đất Khạ trù mưu tính kế chống lại những gánh xiếc khác trên mặt đất, thế là những cái đuôi imes ra đời, những thứ chủ nghĩa xuất hiện,

 

***

 

chúng tôi, cha tôi, tôi, và nồi cơm rượu, cứ như nương theo ngọn lửa bếp mà tồn tại, đã nghe thấy tiếng reo của cơm rượu, tiếng reo nhỏ, khô ráo như mùa hạ, rồi những giọt nước trong như gương thoát ra từ ống dẫn, lửa, hay cuộc điều động vĩ đại nhất của hoàn vũ, từ hòn than hồng nơi bếp đun thức ăn suốt cuộc trường kỳ tiến hóa  đến cái rạo rực trong nghĩ ngợi, thứ lửa lòng của những bậc hiền nhân của nhân loại, cuộc sống có vẻ như bớt đi khắc nghiệt kể từ hôm tôi phụ cha tôi chưng cất rượu ngày ngày nhìn thấy những giọt nước tinh lọc nhỏ xuống trong nhịp điệu cổ xưa, tôi đã nhìn thấy ông Thông Thống đi một vòng từ hòn Đất qua hũng Điều rồi sang ngọn Chà Rây rồi vòng về hòn Đất, người bước  với những bước đi có hơi khó nhọc một chút, nhưng quyết đoán, các bạn là gương mặt của đất đai, mùa xuân hoa gắm nở thứ hình thù của khởi phát, mùa hạ hoa muồng làm đỏ thắm miền cội rễ, người nói với rừng cây trên ngọn Chà Rây giữa lúc những lớp lá rụng hàng thiên niên kỷ đang ngủ yên dưới bước chân người, lũ côn trùng, lũ sinh vật quá bé nhỏ để dịch chuyển cố ngoi lên khỏi những lớp lá mục, nhìn người, nhưng rốt cuộc chẳng nói được gì, một con ốc suối, con cháu  loài vỏ cứng hồi đại nguyên sinh bò lên bờ suối nhìn người trong vẻ sợ hãi, người là của muôn năm cũ, nhưng lũ ốc suối là loài giống còn cũ hơn người, ta yêu đến cả thứ bọt nước trên dòng suối, chẳng biết khi nói thế với con ốc suối người có biết là mình đã nói đến một loài sinh vật con cháu của loài vi sinh thời thái cổ, a, lũ chim trên ngọn Chà Rây trông thấy người thì hát vang lừng, người nhìn lũ chim, rồi cất tiếng hát cùng lũ chúng, hay đấy là thứ âm vang cổ kính nhất, ngày nay mỗi lần thăng trầm thế sự dày vò ta thì ta lại nghe thấy như đâu đấy trong cõi tận cùng tâm can cứ vang lên thứ âm vang vô ảnh phút chốc khiến ta vẫn thấy yêu mến cõi trần gian này, khi hoàng hôn buông xuống hũng Điều thì buồn lắm, nó là chốn sau này thành xóm làng đồng ruộng nhưng bấy giờ là cái hủng núi chứa chất bao nhiêu trắc trở oan khiên, muỗi vắt cắn nát chân người mỗi khi người bước đi trên thứ đất đai nghìn năm ngủ kỹ dưới lớp thời gian vô tri, vào một đêm tối trời, đợi cho đến lúc giữa khuya, người ra đứng giữa trời với đôi chân đầy muỗi vắt, gào lên, không phải, chỉ là muốn nói to lên một chút cho đất trời nghe thấy, cũng không phải, chỉ là người muốn cho lũ con cháu người nghe thấy lời nói của người: lũ các con hãy hợp lực lại, khi đã hợp lực lại thì chuyện gì cũng làm được, ông Thông Thống nói, cái bộ tộc cày bằng đao trồng bằng lửa tức làng tôi thuở ấy được dựng lên dưới ngọn cờ là màu ráng sớm mai với mặt trời đương mọc, tôi nói với cha tôi là mình vừa nhìn thấy ông Thông Thống, vị thủy tổ của làng, giấc mơ cố thổ,  cha tôi nói ông cũng vừa nhìn thấy ông ấy, rồi nhặt một hòn than bếp vẽ lên mặt đất truyền thuyết về ông Thông Thống, truyền thuyết về sự thống nhất bầy đàn bằng một cái vòng tròn không tròn cho lắm,

 

***

 

giờ đây, sự thống nhất bầy đàn chỉ còn là những ký ức đẹp trong tâm trí người làng tôi, tính thống nhất không còn chịu đựng nổi trước sự tàn phá của một khúc sử như tai nạn lịch sử ập lên đầu cư dân của một miền đất vẫn quen sống trong sự nhất trí về cách nhìn thế giới, tôi cứ thấy nhớ cái mõ làng và cỗ làng, tuổi thơ tôi như thể là cuộc chạm khắc tài ba và bền chắc của toàn thể những động thái thuộc cuộc chuyển động sinh tồn của một ngôi làng, và thời gian thì như vừa nuôi dưỡng vừa hủy hoại những thứ nó đã tạo ra, cứ giống cuộc tập dợt sự hiểu biết của tuổi thơ, cha tôi đã bắt tôi vừa đi học [ở trường làng] vừa phải tham gia tất cả những công việc một người cày ruộng, buổi sáng tháng tám đẹp như chuyện cổ tích, tôi nhớ vậy, cắp chiếc roi mây sau đít, tôi thủng thỉnh lùa mấy con bò cày nhà tôi ra gò ao, cái mảnh đất bỗng nhiên được nâng cao lên ở phía tây làng tôi, sỏi sạn nhiều hơn đất, như chỉ dành cho các loài cây thuộc hệ rừng mọc trài: ổi tàu, chim chim, dú dẻ, mà ca…và các thứ cỏ chỉ dừng lại ở màu vàng khô, thứ lương thực bất đắc dĩ của lũ bò làng tôi, buổi sáng ấy như mọi bữa, lũ bò nhà tôi vẫn gặm thứ cỏ như sắp khô cháy ở gò ao còn tôi thì ngồi nghĩ về những cuộc tôi tra hỏi cha tôi về cái gò đất như trời đất đã lỡ sinh ra, có thấy cái ao nào đâu sao lại gọi gò ao, cũng đến cả mấy chục lần tôi chất vấn cha tôi về sự vô lý ấy khiến cha tôi phải nổi nóng với tôi: bắt con người ta phải hiểu hết mọi chuyện của trời đất thì chỉ có nước chết thôi, tôi đang ngồi cười thầm về sự nổi nóng của cha tôi thì nghe mõ làng tôi gióng lên hồi một, thong thả và dịu dàng, nếu mõ làng gióng ba gấp gáp là làng có chuyện không hay, nhưng gióng lên hồi một thong thả  là chuyện đại hỷ, tiếng mõ làng tôi cứ như tiếng gọi nhau ơi ới lúc hoạn nạn cũng như lúc mừng vui bỡi cái mõ làng là làm bằng gốc tre khô đục cho rổng đi ở bên trong khi dùng cái dùi cũng bằng tre gõ lên cái khe thông với độ rổng bên trong thì cứ vang lên thứ âm thanh tôi dịch ra cho hợp với lẽ trời là tiếng gọi nhau ơi ới, ra đình làng thôi lũ bay, đám chăn bò lũ tôi nghe mõ làng gióng hồi một thì rống lên, rồi mạnh đứa nào nấy rượt bò của mình trở về chuồng, bị thúc ép bất ngờ lũ bò làng tôi con nào cũng cứ giỏng đuôi lên mà chạy, những thứ hình ảnh  như thế đã cô đặc lại một cách bền chắc trong trí nhớ tôi, và chính là bác Bảy Bính buổi sáng ấy đã khắc họa thêm vào chỗ trí nhớ ấy một nét hải hồ [tôi cứ thấy nhớ một sáng thu nhạt nắng một tiếng vỗ về…] quả là thằng Đàn, thằng con của ông Cửu Cứ đây, đấy là lời của bác Bảy Bính lúc trông thấy mặt tôi trong buổi sáng ấy như sự xác nhận một sự thật chẳng cần xác nhận, thì ra bác ấy đã uống tự lúc nghe mõ làng gióng lên hồi một, chú Sáu Liệu với chú Hai Ngộ khiên con heo rừng bị sập bẩy hầm [trong đêm] về tới đình làng thì liền gióng mõ làng lên, và ngay sau khi mõ làng gióng lên lần đầu thì bác Bảy Bính đã rót rượu ra uống một mình rồi cắp nách hai chai rượu đầy đến nhà tôi để kéo cha tôi ra đình làng [ cha tôi sa vào cuộc chưng cất rượu là chuyện mãi về sau này] mày nhốt bò rồi sao Đàn, cha tôi hỏi tôi, hình như ông cũng đang ngà say, tôi im, đi thẳng ra phía sau đình làng, nơi người làng đang mổ con heo rừng sập bẩy, hầm của chú Sáu Liệu trê n núi Tượng, người làng tôi gọi những thứ như thế là của trời cho [cũng có thể đấy là một mùa trái gắm chín đầy rừng, hay một con mang hay một con thỏ ai đó săn được trên rừng núi Tượng] của trời cho ít thì làm tiệc nhỏ, của trời cho nhiều thì làm tiệc lớn, nó là cỗ làng, có thể người chép sử không ghi những thứ đó vào sử sách, nhưng những thứ như thế cứ lấp lánh mãi trong trí nhớ tôi, những giọt nước mắt đã chảy ra, vì khói bếp đun thịt heo rừng, hay vì khi xắt thịt heo làm đứt tay, hay do uống quá nhiều rượu, nhưng nó là những giọt nước mắt vui, nơi chiếu bọn trẻ chúng tôi chỉ toàn những thứ chuyện không đầu không cuối, đang nói về chuyện tại sao con heo rừng không có sừng như con nai, thì nhảy sang cãi nhau về chuyện con bò thằng Bỗ con chú Sáu Liệu đẻ một lần tới hai con nghé [đứa bảo là do chú Sáu Liệu thích thế, đứa nói là do con bò cái đó đã ăn quá nhiều cỏ khô] ở chiếu người lớn dường những thứ bọn họ đang trò chuyện nhau đối với bọn trẻ chúng tôi là thuộc lĩnh vực siêu hình, bỗng chú Năm Trử tôi bảo rằng ông Thông Thống, ông tổ của người làng tôi là đến từ phía bên kia núi Tượng, nơi đó con người có trái tim lớn hơn con mắt, và chú Hai Ngộ, ít oi thế, nhưng khi có người cùng làng cùng ngồi với nhau uống chén rượu cũng nói ra được những nghĩa lý của cuộc đời, chú bảo chú nằm mơ thấy cha của chú ấy về bảo ngày xửa ngày xưa hạt lúa không có vỏ, nhưng khi thấy con người làm ra quần áo để mặc, hạt lúa cũng thấy xấu hổ liền có vỏ, hay cỗ làng là chốn để con người biết mình từ đâu đến,
 

***

giờ đây không cần đến một tác nhân lịch sử ghê gớm [một cuộc nổi dậy chống áp bức bất công, hay một vụ bắt bớ người mang màu sắc chính trị] mới có thể làm lung lay cấu trúc thiêng liêng của ngôi làng yêu quí của tôi, dường đã đến lúc người làng tôi không còn chịu đựng nổi sự tác động của cuộc sống phức tạp để giữ vững những thứ tốt đẹp hình thành từ những truyền thuyết về lập đất lập làng đầy vẻ hào hoa huyền nhiệm [những giả tưởng như sự mong ước mông lung về một thế giới tốt đẹp] người đi chân không chấm đất, ghềnh đá buổi đầu hôm, cuộc hóa thân cho thành những khúc vạn dặm, và cuối cùng thì tất cả đều đã thành chuyện thật: sự thương yêu đùm bọc và tin yêu nhau trong tính thống nhất của bầy đàn là luôn giống nhau về cách sợ hãi hay cách hân hoan trước bất cứ biến cố nào của cuộc sống, cái một ngoài mọi cách cắt nghĩa, nhưng giờ đây chỉ mỗi lời tuyên bố như giỡn chơi của  cậu con trai tuổi mười bảy cũng có thể làm đảo lộn cuộc  sống của làng, chuyện đơn giản thôi, thằng Báng con chú Sáu Liệu để bò của nó ăn hết nửa đám lúa đang trỗ đòng của anh Hai Hợp tôi, không kiềm được tức giận, anh Hai Hợp tôi đánh vô mông thằng Báng hai mươi  roi, rồi thẳng đến nhà chú Sáu Liệu xin lỗi chú ấy về sự nóng nảy của mình, chú Sáu Liệu đánh thêm vào mông thằng Báng hai mươi roi nữa, và xin bồi thường thiệt hại cho anh Hai Hợp, nhưng anh tôi nói đấy chì là sự bất cẩn của thằng Báng, và không chịu nhận tiền bồi thường, chuyện thằng Báng thả bò ăn lúa của anh Hai Hợp tôi đến đây coi như chấm hết, nhưng thằng Báng tuyên bố với đám con trai trong làng cùng lứa với nó là nó sẽ theo cách mạng để có súng bắn chết anh Hai Hợp tôi, chú Sáu Liệu lại đánh đòn thằng Báng về tội ăn nói ngông cuồng, nhưng chẳng đời nào nghĩ thằng con trai ngỗ nghịch của chú lại dám làm chuyện động trời ấy, thằng Báng cũng rặt tính hiếu thắng của anh nó hồi nhỏ, chuyện thằng Bổ con ông Sáu Liệu [Bổ là anh kề của Báng] bằng mọi cách để cho con bò đực của nó thắng con bò đực của thằng Đàn con ông Hai Cứ hồi ấy cả làng đều biết, Bổ cùng tuổi tôi, giờ đã có gia thất, và trở nên hiền lành như chú Sáu Liệu, mười bảy tuổi anh Hai Hợp tôi đề nghị với cha tôi để anh thay cha lo việc cày bừa mấy đám ruộng trên đồng làng, con không muốn đi học nữa sao, cha tôi hỏi, anh Hai Hợp tôi trả lời thật lòng là anh học không vô nữa, cha tôi cũng chỉ hỏi thử thôi là anh đã có ý định lấy vợ chưa, anh Hai Hợp tôi cũng đáp thực lòng rằng anh cũng đang có ý định ấy, mười bảy tuổi anh trai tôi đã bước vào cái quĩ đạo cứ coi như thuộc nền văn minh lúa nước: vui cùng vợ con và mấy đám ruộng trên đồng làng, cha mẹ tôi đẻ anh Hai Hợp xong thì nghỉ tới mười bày năm sau mới đẻ tôi, cho nên khi lớn lên tôi cứ cảm thấy người anh kề của mình là thuộc về lớp người tiền bối của mình, thuộc về những cái tượng đài coi trọng bầy đàn và trong sáng như gương, cho nên không đời nào anh Hai Hợp tôi cho rằng thằng Báng con chú Sáu Liệu đi  trả thù anh chỉ vì anh đã đánh nó mấy roi, tôi cũng cho rằng việc thằng Báng tuyên  bố với lũ cùng lứa trong làng là chuyện hoang đường, một đứa con trai mười bảy tuổi thì không thể có lòng hận thù như một người lớn đã trải qua những uẩn khúc của đời sống, chính là chú Sáu Liệu, anh Hai Hợp tôi và tôi đã quên rằng làng đang  trong một khúc sử đang xảy ra cảnh thù hận nhau,

 

***

đấy là mùa đông buồn bã nhất của gia đình tôi, cái cách để tự trấn an mình là từ cha mẹ tôi đến anh chị Hai Hợp tôi và tôi  đều phải dấu kín trong lòng nỗi lo chết chóc đến từ cái khúc sử lẽ ra không nên có, mùa đông ở quê  tôi dường con chim bịp thức canh cả ngày lẫn đêm, buổi trưa, cơn mưa lớn chợt đổ xuống xóm làng, lắng nghe thì thấy có tiếng chim bịp ở bờ tre sau nhà, đêm, dường như thức giấc lúc nào tôi cũng nghe có tiếng kêu của con chim bịp, có phải trời đã dành cho quê tôi con chim trời để chia xẻ những nỗi niềm con người, mùa đông ở quê tôi cứ mưa xuống là thấy trắng trời, như không còn nhìn thấy chi cả, chỉ thấy mưa trắng trời, con đường làng ngập trong mưa trông như ngắn hơn, và, khi những cơn mưa liên tục đổ xuống suốt ngày hay suốt đêm, mưa dầm, từ ngữ chỉ cho cái cảnh mưa thối đất đai,  mưa dầm thì không thể đi làm ở đồng làng, ít ra đồng làng, con người có vẻ như thấy yêu đồng làng mình hơn, mùa đông, mưa như cứ nén lại những nghĩ ngợi trong tôi, thấy mọi thứ như rõ hơn, thật hơn, cứ thấy  như mình đang bị gạt ra khỏi mọi sổ bộ, cả ở trần gian, cả ở chốn trên cao nơi lưu giữ những  thứ danh sách gọi là số mệnh, định mệnh, thì chẳng phải cuộc thanh trừng đã bắt đầu bằng việc gạt tôi ra khỏi sổ bộ thầy giáo dạy học hay sao, tôi thấy rất rõ là tôi không biết sắp tới thì sẽ ra sao, kệ mẹ chúng, nhiều khi tôi thầm hét lên, tưởng tượng ra một cơn lũ đang cuốn đi hết thảy mọi thứ rác rưởi, người làng tôi vẫn quen với cái cách mưa dầm ngồi trong nhà nghe nước đổ ở mái nhà và nghĩ ngợi  đủ thứ, lúa trên đồng làng được hay mất, con cái có còn đi học nổi hay không, lũ trai trẻ có khỏi lính tráng không, những người già có sống qua hết mùa đông mưa bão, đôi khi không phải tiễn đưa người già mà tiễn đưa đứa con trai con nhà ai đấy trong làng chết trận, cứ nghĩ hoài nhưng không hiểu vì sao lại có cái khúc sử làm cho chết chóc chia rẽ như vậy, nghĩ ngợi đủ thứ và cũng không biết những nghĩ ngợi như  thế là có dính dáng gì chuyện tổ quốc đồng bào hay không, mùa đông ở quê tôi mưa xuống đất mềm, cây lúa trì trên đồng làng mặc kệ hoặc không thèm nghĩ đến chuyện bom đạn trút xuống lúc nào, cứ theo nhịp điệu của cái đại ngã: mùa đông thì cái tiểu ngã là cây lúa trỗ đòng, mưa là dưỡng chất của sinh tồn, có lẽ những thế hệ người làng tôi trải qua được những trăm năm ngàn năm lao khổ là nhờ nương theo cái tiết tấu nắng mưa huyền nhiệm chỉ thêm vào những cuộc tình thì có thể có được thứ được gọi là cuộc vui trần thế,

 

***

 

cha tôi vẫn cái cách đêm ngủ rất ít, cứ thức giấc thì đi lại trong nhà, lần này thì cha tôi lo lắng cho anh Hai Hợp tôi, ông đang sống trong nỗi bất an, vô cùng bất an, tôi cứ tưởng tượng một ngày nào đó thằng Báng con chú Sáu Liệu lên rừng theo quân giải phóng rồi xách súng về bắn anh tôi và thấy chuyện đó nó vô lý vô cùng, chẳng lẽ người ta chỉ đánh mình có mấy roi mà mình bắn chết người ta, nhưng cha tôi bảo có ai lường được ông Tám Hổ và bà Ba Quỳnh cả đời lương thiện làm ăn cuối cùng lại chết vì súng đạn, cha tôi lại làm cho tôi cảm thấy bất an, tuy nhiên, khi trò chuyện với anh tôi, cha tôi chỉ nói ra những gì làm cho anh ấy không lo lắng, chẳng hạn dặn dò phải thận trọng trong lời ăn tiếng nói với người làng, điều ấy thì khỏi phải lo đối với một người mới mười bảy tuổi đã chấp nhận một cuộc sống thầm lặng, cuộc đời anh tôi có vẻ như đi xa nhất là từ nhà ra đồng làng, rồi từ đồng làng trở về nhà, một cuộc dịch chuyển thầm lặng trong cái bầy đàn gói gọn trong khoảnh trời đất chất chứa bao chuyện thần kỳ, tôi sẽ đánh bò sang cày ruộng nhà anh khi con bò cái của nhà anh đẻ, cặp bò nhà anh lẻ đầu ách, hoặc, còn thần kỳ hơn, ở làng tôi thì bà cụ ấy đã đỡ đẻ cho hết thảy những cuộc sinh đẻ ở trong làng,  chẳng phải việc người ta chỉ muốn bà mụ trong làng đỡ đẻ mà không muốn đến các cơ sở y tế hiện đại để sinh đẻ là thứ nhận thức không thể lý giải được hay sao, cuộc sống có vẻ hòa hoãn như cách con người chầm chậm bước theo đôi bò cày trên ruộng, vừa bước  vừa nghe mùi thơm tỏa lên từ những thớ đất mới vỡ, cho tới con bò và cây cày gỗ đều có vẻ muốn thân thiện với con người thì suy ra cũng thật khó có chuyện con người thù hận nhau, anh Hai Hợp tôi buổi ấy thực ra không lo thằng Báng con chú Sáu Liệu trả thù, mà chỉ ân hận về việc anh đã đánh thắng Báng mấy chục roi,  

 

***

tôi cố sức an ủi mẹ tôi rằng chuyện lời qua tiếng lại giữa thằng Báng con chú sáu Liệu với anh Hai Hợp tôi  là giải quyết xong yên, nhưng đã có kẻ dọa giết con của mẹ thì mẹ lo lắng ngày đêm là phải, mẹ tôi chỉ sinh mỗi tôi và anh Hai Hợp tôi, có vẻ bà yêu anh em chúng tôi còn hơn yêu bản thân bà, và tình yêu tôi dành cho mẹ tôi cũng lớn đủ cho tôi có thể tưởng tượng ra thế giới thương yêu của mẹ, đấy là một bản hòa âm kỳ tuyệt luôn thốt lên những âm vang như cuộc tuyển lựa kỹ càng nhất qua những tháng năm có mặt trời đốt trên cuộc sống cần lao của mẹ, và những cái khúc sử kỳ quặc nữa, những cái khúc sử còn nghiệt hơn mặt trời đốt trên lưng mẹ, tôi cứ tưởng tượng một ngày tháng sáu mặt trời đang đổ lửa xuống ruộng đồng, mẹ tôi sinh tôi vào tháng sáu, bà chạm tay vào một sinh linh bé nhỏ giữa tháng sáu nắng lửa, và tôi đã khóc thật nhiều, có thể là mẹ tôi lúc bấy giờ chưa biết chuyện đó, chuyện tôi khóc như một nghĩa vụ, nhưng mẹ là một bà tiên ngày ngày hát cho tôi nghe, cái đơn vị người bé bỏng là tôi ngay tự buổi đầu đã làm cho mẹ tôi lo lắng khổ sở, từ bụng mẹ tôi bước ra, có vẻ như động thái ấy đã hình thành nơi tuổi thơ tôi một thứ thời gian không gian theo cách của tôi: tôi với mẹ là một, cái một huyền nhiệm, có nghĩa, không có một cách trở nào cả, cho nên, đã đi học cấp một ở trường làng tôi vẫn còn thấy không muốn xa mẹ chút nào, buổi sáng cắp sách vở ra đứng ở sân nhà, nước mắt ràn rụa, mẹ tôi cũng khóc, chiều thì về nhà thôi, mẹ tôi nói, và lau nước mắt cho cả tôi và mẹ, nhà tôi khá xa trường học, nên đi học phải mang theo cơm vỡ cho bữa ăn trưa ở lại trường, đêm, như vẫn còn ấm ức việc hằng ngày phải đi xa mẹ, tôi khóc ở trong mơ, ráng đi học cho thành người con ạ, mẹ mò mẫm chùi nước mắt cho tôi, và giảng, có những đêm đi ca hát nhảy múa với lũ bạn cùng lứa trong làng về, tắm vội tắm vàng để còn đi ngủ, khuya, mẹ phát hiện thấy hột nút áo dưới cùng đem cài vào khuy trên cùng, tôi cứ giả vờ ngủ trong khi mẹ cài lại nút áo cho tôi, những chuyện như thế tôi còn nhớ rất rõ, bỡi nó là những báu vật trong đời một người, mẹ tôi như đôi cánh to lớn của con chim đại bàng cắp anh em tôi bay qua những bầu trời rộng lớn, giờ anh em tôi đã thành những người đàn ông to lớn, mẹ lại cõng anh em tôi  trên lưng mẹ để đi qua cái khúc sử ác nghiệt, buổi sáng ấy mưa lớn lắm, nước giọt mái nhà chảy như thác đổ, cha tôi và tôi đang chụm rượu thì thấy mẹ tôi đội áo mưa chạy ra sân, tui sang nhà lũ thằng Hợp một chút, tôi và cha tôi chưa kịp hỏi, mẹ tôi đã vói vào nhà, đã nghe thấy chim bịp kêu ở bở  tre sau nhà, nghe tiếng reo của cơm rượu ở trong nồi tôi cảm thấy như có niềm vui nào đó đang diễn ra trong tôi, thì ra tôi vừa giả dụ thằng Báng con chú Sáu Liệu đã đến nhà xin lỗi anh Hai Hợp tôi về những lời lẽ bỗ bã của nó, mẹ tôi đã trở về, vừa tới sân bà đã vói vào: mưa lớn quá vợ chồng con cái thằng Hợp cũng ngồi nhà như nhà mình, mẹ tôi nói như thể để thông báo cho cả nhà biết anh Hai Hơp tôi vẫn bình yên,

 

***

 

kinh văn đạo Ruộng của chú tôi có chỗ như đặc tả về vẻ đẹp trong trời đất, hay chú tôi muốn nói cái đẹp là sự thật chăng, người đi về phía ấy đặt một sinh linh lên đất, và dặn dò: khi nhìn thấy một bông hoa nở mi đặt tay lên trán, nói, xin hãy để cho hương hoa tỏa sáng khắp nơi, khi nhìn thấy bông hoa động đậy trong cơn gió vừa thoảng qua thì biết là lời cầu xin của mi đã được chấp thuận, cầu xin cho sự bền vững của vẻ đẹp là cách tốt nhất để cho sự hiểu biết ít oi nơi mi trở thành ý thức, người đi, và thấy đất dưới chân người mỉm cười, biết là đã đến lúc tạo tác, người dừng lại nín thinh để cho những phát tiết của người hình thù nên những vệt, những chấm, những đường, những hư không…một con ong òa khóc khi làm tổ, lập tức cả đàn rùng mình cất cánh, sau những bấn loạn bất thường cứ gọi là phút kinh cầu, một tòa lâu đài tráng lệ bày ra giữa cảnh non nước nghìn năm, không phải là chốn nương thân của lũ ong, mà là khúc thức của tồn tại được trưng ra bằng hình ảnh, đến và đi, loãng ra và tụ lại, cái cách dịch chuyển của tiếng và màu của người như thể cuộc hòa âm bất tận, người cứ lặng thinh đi cho mọi thứ cấu thành,

***

hưu chiến rồi, ông Đạc xã trưởng đại diện cho chính quyền địa phương đã ký kết với thằng Lữa con ông Năm Thực đại diện cho lực lượng kháng chiến, người trong một làng vốn no đói có nhau thì có khó chi chuyện ngày tết ký kết không bắn nhau, đó là những tin tức lan truyền trong bầy đàn người nhỏ bé làng tôi, chuyện như cổ tích mẹ kể buổi thơ ấu của tôi, bỗng có một ông tiên mang lại bình yên cho xóm làng, tôi đọc thấy có điều gì đấy như niềm hân hoan vừa vụt tắt thứ niềm vui khởi lên từ những hình ảnh thật sự là không thật trong nghĩ ngợi cha tôi biểu lộ qua cách nói năng và dáng vẻ đứng ngồi không yên của ông, tôi biết cha tôi biết những đồn đãi về ngưng bắn trong những ngày tết chỉ là cách biểu lộ lòng mong mỏi quá mức về cảnh thanh bình của người làng tôi, ông đang nghĩ về nó, cảnh làng xóm yên vui từng trải qua cuộc đời mình, nhưng có điều gì đó có vẻ rất bức bách đang diễn ra trong ông, tôi cứ có linh cảm đó là nỗi dày vò trong nhận thức vì không lý giải được cuộc diện kỳ cục của một khúc sử, hay, đó cũng có thể là niềm nuối tiếc thứ quá khứ thấm đẫm cuộc văn hiến lưu truyền từ các thế hệ cha ông vừa hiển linh vừa thân thiết, chạm tay vào chiếc lư hương nơi đình làng thì liền thấy có  những vị thần hộ mệnh lơ lửng giữa cuộc sống của mình thứ ràng buộc như thể sợi dây rừng trên rừng núi Tượng đang cột chặc mọi người lại với nhau, làng là thứ từ ngữ thuộc cuộc văn hiến nghìn năm để chỉ cho cái khối người là một, cái khối người khi khuyết đi một người là cuộc tang tóc nghìn năm, đêm trừ tịch cha mẹ tôi và tôi ngồi chụm bánh tét, cuộc trầm tư giữa cái khúc sử đêm trừ tịch ai cũng muốn  lắng nghe cho hết những gì mình muốn biết, chúng tôi đã kê bếp ở sân nhỏ để nấu bánh, cái góc sân nằm lọt thõm  giữa nhà bếp và nhà giữa chỉ thông lên trời không thông ra bốn phía nên ánh lửa bếp được giữ kín trong nhà, chỉ còn nghe tiếng nước reo trong nồi bánh và tiếng lửa rần rật nơi bếp mỗi khi có ngọn gió nào đó từ trên bầu trời trên đầu chúng tôi lạc xuống cái góc sân như đang được giữ kỹ giữa trần gian, sự lặng lẽ như một thứ ngoại lệ [rất ngoại lệ] đang ập xuống chúng tôi, bỗng dưng cả cha mẹ tôi lẫn tôi  chẳng ai còn muốn trò chuyện, như thể mỗi người trong chúng tôi đều đang chờ đợi một điều gì đó, cũng ngoại lệ, sẽ xảy ra, đêm trừ tịch lẽ ra mọi nhà phải thắp đèn lên, từ ngoài sân cho tới trong nhà đèn đuốc phải sáng lên, nhưng tất cả những thứ ánh sáng như thế đã được cái khúc sử kỳ cục liệt vào danh sách những ám hiệu, cách thông tin giữa dân làng và một bên nào đó trong cuộc xung đột lịch sử, dường cha tôi đang gạt đi thứ áp đặt ấy trong nghĩ ngợi, ông rời bếp lửa, đứng lên, đi tìm cái đèn bão, thắp lên, tôi thấy mẹ tôi không nói gì, tôi cũng không nói gì, cha tôi mở cửa, mang cái đèn bão ra treo ở hiên hè, một chặp lại mang trở vào, đóng cửa, tôi nghe tiếng thở dài của mẹ tôi, bà đang chụm thêm củi vào bếp, cha tôi tắt cái đèn bão, đi lên nhà trên, uống trà, một chặp lại quay lại chụm bánh với mẹ con tôi, rồi mẹ tôi lại đứng lên, đi mở cửa sổ nhà giữa, đứng lặng người nhìn ra bên ngoài, thấy cha tôi không nói gì, tôi cũng không nói gì, tôi biết mẹ tôi đang cố thử nhìn đêm trừ tịch là đang diễn ra thế nào ở bên ngoài, tôi cũng muốn đứng lên để nhìn thử, như mẹ tôi, nhưng lại thôi, vì không muốn làm đứt quãng dòng suy nghĩ của bà, tôi đoán là mẹ tôi đang nghĩ về anh chị Hai Hợp tôi, về thằng Lữa con cậu Năm Thực tôi, và những người làng, rồi, bỗng mẹ  đóng ập cửa sổ, quay lại chụm bánh với cha con tôi, có một thứ mâu thuẫn như bi kịch lịch sử đang diễn ra trong chúng tôi, vừa nghĩ rằng có, và không đời nào có,  thứ gọi là lòng tốt, trong mọi cuộc xung đột lịch sử, chỉ còn lại là cái vẻ đẹp, hồn cốt của đêm ba mươi tết trong quá khứ ám ảnh chúng tôi, tôi cứ thấy nhớ  tháng chạp gặt lúa trì muộn ấy, cái hồn cốt lung linh ấy [đồng làng tôi thuở ấy chỉ làm lúa trì một vụ gặt vào tháng chạp] năm ấy lúa trì gặt muộn nên đêm trừ tịch còn đập lúa ở trên sân, đến mùa gặt lúa trì thì dân ở hạ nguồn con sông Tượng, dân hạ bạn, lại kéo lên làng tôi gặt lúa lấy công, tiết đông chí năm ấy trời lạnh như cắt, đập lúa giê sảy xong đã quá nửa đêm, đám dân hạ bạn lên nhà tôi gặt lúa lần ấy chỉ toàn đám con trai con gái cùng lứa tuổi tôi [cứ đến mùa gặt lúa trì thì tôi lại ham vui cùng đám dân hạ bạn lấy rơm rạ xây thành hang động ở ngoài vườn để ngủ cho ấm] đêm trừ  tịch lúa trì gặt muộn ấy như còn nguyên trong ký ức tôi, ngồi chụm bánh tét với cha mẹ tôi, ngoài mùi thơm của bánh và mùi thơm của lửa bếp tôi như còn nghe thấy mùi thơm  của lũ con trai con gái miệt hạ bạn, đêm trừ tịch lúa trì gặt muộn ấy tôi đã ôm lũ con trai con gái hạ bạn ngủ trong thứ hang động trắng muốt lòng trinh bạch, hóa ra con người ta sống được là nhờ vào những hình ảnh như thứ ám ảnh đẹp nhất trong nhận thức,

 

***

 

cứ đến mùa xuân thì con chim ấy lại bay về đậu ở cây gòn trước ngõ nhà tôi, lần đầu tiên tôi phát hiện ra  nó là buổi sớm tháng tám tôi ra ngồi ở hiên hè nhìn đám sương mù đang phủ xuống cánh đồng làng trước nhà, màu sương mù như đang làm nhòe đi cây lá của cây gòn, và tôi bỗng nhìn thấy đang nhảy nhót trên những cành nhánh cây  gòn một loài chim lạ, con chim đang thốt lên thứ tiếng kêu thảnh thót và dài có lẫn chút chập chờn khúc khuỷu trong tiếng kêu của lũ chích chòe, hoành hoạch, không hiểu sao bấy giờ tôi cứ nghĩ loài chim chưa từng gặp ấy là chim linh lan, cứ thốt lên trong đầu tôi mấy từ linh lan…linh lan [thì chẳng phải thuở ban đầu các loài trong trời đất đều chưa có tên rồi cái con vật biết tư duy là con người  mới lần lượt đặt tên cho bọn chúng] mấy mươi mùa xuân tôi đặt tên cho một loài chim trời là chim linh lan, mùa xuân, khi thấy con chim linh lan về đậu ở cây gòn trước ngõ nhà tôi thì trong tôi lại dấy lên thứ uẩn khúc của một người chưa hiểu hết trời đất, vậy thì những mùa khác chim sống ra sao, đến mùa xuân chim linh lang về đậu ở cây  gòn trước ngõ nhà tôi,  nhảy nhót trên những nhánh gòn lủng lẳng những trái non màu xanh da trời, tôi cứ lẫn lộn giữa những trái gòn non với con chim linh lan cũng có màu lông màu xanh da  trời, mùa xuân  nghe  chim linh lan hót tôi cứ thấy nhớ một thứ gì đấy mơ hồ nhưng rộng lớn như thể không bao giờ có bờ bến rồi cứ thấy nhòa dần đi  trong nghĩ ngợi cho đến lúc trí tuệ tôi mách bảo tôi đấy là lúc bắt đầu của mọi sự vật, nhà tôi có khách hàng xóm đến thăm mẹ tôi đi mới tới ngõ đã vói vào, chị Hai Cứ có nhà không, trong khi tôi sửa soạn lên tiếng đáp lời khách thì thấy con chim linh lan đứng trên nhánh gòn nghiêng tai nghe, con linh lan nghiêng tai nghe với vẻ vô cùng chăm chú làm như thể nó muốn hiểu hết mọi thứ đang diễn ra trên thế giới nhiêu khê phức tạp này, và mỗi khi con linh lan bay lượn quanh cây gòn trước ngõ nhà tôi thì tôi không nghĩ là nó bay lượn mà là đang bày tỏ cho thế giới biết nó vô cùng quyến luyến nơi chốn mỗi khi mùa xuân đến thì nó lại được nhìn thấy khoảnh nhân gian tuyệt hảo,  mùa xuân thì chim linh lan về đậu nơi cây gòn trước ngõ nhà tôi, tiếng hót của chim như thể hạt ngọc ai đó đã đem gói vào vải lụa, cái tàn nhẫn của những cuộc xung đột lịch sử là làm cho con người ta không còn có chỗ để nghĩ ngợi về những vẻ đẹp trong trời đất,

***

rồi người làng tôi lại trải qua những ngày không vui, cái bầy đàn người nhỏ bé chúng tôi như thể không còn giữ nổi cuộc văn hiến tổ tiên để lại, một cuộc bất thành văn, lung linh,  bàng bạc, như trong giấc ngủ, đình làng,  mõ làng, đồng làng, lệ làng, rồi cỗ làng…một thứ triết học mông lung, làng như thể góc nhân gian tráng lệ, ở đó là tất cả, dù có chuyện chi đó phải trải qua chín mươi chín miền hung hiểm cũng phải trở về để đêm nghe con chim ấp muỗi vỗ cánh nơi bờ rào nhà thức dậy giữa thứ trời đất thân quen đến nỗi không bước ra sân để nhìn cũng có thể mường tượng được đám sao bắc đẩu có vẻ như ở mãi bên cạnh một người cứ nghe nhắc đến sao trời thì biết là mình vẫn còn sống ở trong ngôi làng đêm vẫn nghe tiếng vạc kêu sương, trong lúc người làng tôi ai cũng nghĩ trong lúc mùa xuân cỏ cây tươi tốt thế thì chẳng bên nào trong cuộc chiến lại nỡ gây ra cuộc chết  chóc thì làng lại xảy ra cuộc hận thù mới, tháng giêng, có vẻ mọi thứ trong trời đất đều đang hòa hoãn, bay chậm, và ít đảo lượn, đó là cách lũ chim buổi sáng lượn lờ trên bầu trời đồng làng, tôi đứng ở sân nhìn ra cánh đồng làng trước nhà, những cơn mưa tháng chạp còn để lại nước lênh láng ruộng đồng, gốc rạ lúa trì đang nẩy mầm xanh ngát, cái cách xanh tươi nhẩn nha của chúng như thể chẳng cần biết sau đó thì người ta sẽ cày đất lên để gieo  xuống những hạt lúa trì khác, từ hôm thôi dạy học, sáng sớm nào tôi cũng tha thẩn trên sân, con ngỗng lẻ đôi của nhà tôi sáng sớm nào thấy tôi tha thẩn trên sân thì kêu lên mấy tiếng quoác quoác rồi lại cùng tha thẩn với tôi, sáng ấy, nghe tiếng kêu của con ngỗng, mẹ tôi từ trong nhà vói ra: cho ngỗng ăn đi Đàn, tháng giêng, mẹ tôi còn nghỉ ngơi, chưa chạy chợ, nhưng cha tôi thì đã chụm rượu tự hôm hết tết, tôi đi lấy lúa cho ngỗng ăn, tôi vãi lúa xuống bìa sân, và ngồi xuống, chờ, con ngỗng đi một vòng quanh tôi, rồi bắt đầu rỉa lúa, tôi vỗ vỗ lên lưng con ngỗng, và nói ở trong lòng: nếu như tôi còn dạy học thì sẽ mua một con ngỗng mái để làm bầu bạn với nó,  tôi như đọc thấy niềm cô độc của con ngỗng của tôi trong cách rỉa lúa của nó, xin nhắc lại, trong một đêm tối trời, chẳng biết lực lượng chiến tranh nào đã phục kích ở vườn nhà tôi và đã bắn chết con ngỗng mái, bắn lầm, vì đã tưởng con ngỗng là con người, con ngỗng của tôi cũng cô độc như tôi, nó cô độc vì lẻ đôi, tôi cô độc vì chưa có đôi, con ngỗng đang rúc lên cánh tay áo tôi như để nói là nó đã no, thì bỗng kêu to lên mấy tiếng quoác quoác, rồi lặng đi, tôi đứng lên, nhìn ra ngõ, cứ tưởng tôi nhìn lầm, nhưng không phải, thằng Mai con thím Ba Quỳnh đang mang ba lô đi vào nhà tôi, làm cách làm sao mà mới sáng sớm em đã có ở đây, tôi kêu lên,  thằng Mai ôm chầm lấy tôi, rồi cùng tôi ngồi xuống bìa sân, con ngỗng của tôi rúc lên ống tay áo thằng Mai như thể để nói với nó rằng những ngày nó chưa đi xa mỗi lần sang đây con ngỗng cũng kêu lên quoác quoác rồi im vì biết đấy là người quen, em phải gặp mẹ em trước nhất, nên đã tính tóan chuyện xe cộ để khi về đến làng lúc mặt trời đã lặn bấy giờ thì chẳng còn ai trên đường làng, thằng Mai nói, tôi vui chuyện gặp lại thằng con trai thím Ba Quỳnh mà quên mất chuyện nó đang mặc quân phục lính quốc gia, sao không phải sinh viên mà là lính, tôi hỏi, thằng Mãi đã kể cho tôi nghe hết, thì ra ở Sài Gòn về chôn cất mẹ xong nó gửi lại cho người làng chuyện nhan khói cho thím Ba Quỳnh và bảo là trở lại trường đại học, nhưng thực ra là nó đi đăng lính, với tấm bằng tú tài, học quân sự ở quân trường xong, nó được mang quân hàm chuẩn úy, xin nhắc lại, thím Ba Quỳnh bị cách mạng bắn chết vì nghi ngờ đã làm gián điệp cho đám lính Đại Hàn chỗ đồn lính trên bờ sông Tượng lúc thằng Mai đang học đại học ở Sài Gòn, xe đò về tới bến xe liên tỉnh ở Thi Nại, em thuê xe thồ riêng để về quê, cả đêm em thức với mẹ em, sáng ra em sang đây, anh là người đầu tiên trong làng biết em đã trở  về, thằng Mai nói, con ngỗng của tôi lại rúc lên ống tay áo của nó như thể để nói là nó có nghe nhưng chẳng hiểu gì hết, mà sao lại bỏ học để đi lính, tôi hỏi, em cũng không biết làm thế này có đúng không, nhưng chỉ cách này mới bắn được những người đã bắn chết mẹ em, người mẹ hiền lương vô tội, thằng Mai nói,  và đứng lên, như thể để cho tôi nhìn thấy nó đang trong một cách hiện hữu khác, một sĩ quan tuổi  trẻ với bộ áo quần ka ki màu vàng xám chiếc quân hàm  mạ vàng còn mới toanh đang dính trên cổ áo và với cây súng ngắn đeo nơi thắt lưng đang trệ xuống theo kiểu đeo gươm của các hiệp sĩ trung cổ châu Âu, tôi cứ nghe dấy lên trong lòng thứ nỗi buồn cũng ảm đạm như thứ sương mù tháng tám giăng mắc trên ngôi làng quê nghèo của tôi vào những sớm thu có tiếng lũ gà con mới sáng ra đã lạc mẹ chiu chít trong làng, làng tôi lại thêm một cuộc hận thù mới, tôi biết thằng Mai đang muốn trả mối thù nhà, nó về quê chuyến ấy là để nói cho người làng tôi biết là nó đang trả mối thù nhà, không thể làm thích khách, vì nó đâu biết ai đã giết mẹ mình mà làm thích khách, chỉ là kiếm khách của thời đương đại, tôi  khuyên thằng Mai hãy bỏ đi lòng thù hận, nhưng có vẻ vô ích, nghe tôi khuyên, thằng Mai chỉ mỉm cười, em đi thăm người làng mỗi nhà một chút rồi trở lại đơn vị vì em chỉ có hai ngày phép, thằng Mai nói, và từ biệt tôi, mang ba lô ra ngõ, con ngỗng nhà tôi lại buột kêu lên, quoác quoác, rồi lặng đi, kiếm khách hề, một đi không trở lại, và những mối hận thù kiểu nhân loại như thế vẫn cứ âm thầm diễn ra nơi những đường biên lịch sử,

***

bác Tám Bảng lại ra ngõ đứng chửi, bộ lũ bay muốn chết sao, ông chửi ai, và chửi về việc gì, không ai biết,

***

kinh văn đạo Ruộng của chú tôi có chỗ như cuộc mô tả một thế giới đa phức nào đó gòm có cả những châu báu ngọc ngà, những nước mắt, phân, và rác, một thứ sáng thề ký chăng, người đem niềm háo hức mù lòa phân phát khắp nơi, rồi nằm nghĩ ngợi, những giọt vắn giọt dài cứ trào ra, những hình hài thân thuộc  hay không thân thuộc từ đấy dấy lên giữa cái khoảng trống như thứ ánh mắt thèm khát của con vật bị đói lâu ngày, khởi thủy là nhìn hay sao, có ai đó hỏi, không phải, người buộc lòng không thể im tiếng [trước chú tôi có nhà hiền triết nói thế giới là cái nhìn của ông ta, nhưng đấy là chuyện khác/ghi chú của người viết]  người nói, và những giọt vắn giọt dài như thứ tương tư hùng hậu nhất cứ trào ra giữa cái khoảng trống như nỗi sợ hãi của toàn thể những sợ hãi gộp lại, lũ chim trống nơi rừng cây trắc bá cứ từng lúc tru lên, hốt hoảng, và lầm than, mấy trăm ngày đêm chúng đi tìm bạn tình không có, lũ chim mái bỗng dưng bặt dạng, một cuộc chơi phóng túng, hay là thử thách của người, không biết, rừng không tiếng hót của chim như thể cung đàn giữa chừng bỗng ngưng, và cái cách giãy giụa bằng đôi cánh để bay của lũ chim trống như thể vách đá đổ, suối rừng vỡ nứt, hay khởi thủy là một cuộc dục tình, không phải, người buộc lòng không thể im tiếng [trước chú tôi có nhà hiền triết nói đến cái libio, một thứ bản năng của con người, nhưng đấy lại là chuyện khác/ ghi chú của người viết] người nói, và nghe thấy có quá nhiều tiếng chân của lũ thú trên rừng, có những tiếng chân giống tiếng cựa mình của rong rêu, có những tiếng chân như cơn gió giật giữa mùa, có tiếng chân như tiếng thác đổ, tiếng chân giống tiếng cựa mình của rong rêu là lũ cua cá đang chạy trốn cuộc đuổi bắt của bọn hươu nai, tiếng chân như cơn gió giật là của bọn hươu nai đang chạy trốn cuộc đuổi bắt của lũ cọp, và tiếng chân của lũ cọp tham mồi thì nghe như thác đồ, lũ chúng, con nào cũng chạy với những con mắt như chẳng nhìn thấy gì ngoài kẻ đối địch với mình, và ở một nơi nào đó trên mặt đất, anh [người đàn ông] đang đuổi theo ngọn gió xuân rười rượi những biến tấu, đang băng qua đồng ruộng, núi đồi, biển cả, băng qua những triều đại của loài vỏ cứng, loài thân mềm, băng qua các thế hệ của rừng tai ga, rừng ngập mặn, chín cửa mười cửa phù sa, gió chướng,  cho đến khi nàng [người phụ nữ] hiện ra với bao nhiêu là gương mặt, ôm chặc lấy dáng vẻ đa nguyên của nàng [ người phụ nữ] anh cứ gào lên, chảy ra từ những tiếng gào là sắt thép, củi đun, áo, mũ, giày, dép, văn chương, triết học, ngai vàng, địa ngục, [trước chú tôi cũng có người tả sức mạnh của tình yêu,  nhưng đấy là chuyện khác/ chú thích của người viết] anh [người đàn ông] cứ ôm chặc lấy nàng [người phụ nữ] cho đến khi mặt trời lặn, mặt trăng lặn, chim lặn, cá lặn, cho đến khi cả anh và nàng [cả người đàn ông và người phụ nữ] không còn nghe một chút máu nào còn chảy trong người mình, không phải chết, mà không biết là mình đang chết, không biết là mình đang biến thành ngọn lửa sờ không thấy nóng [ trước chú tôi có nhà hiền triết Heraclius, nước Hy Lạp cổ,, cũng nói về lửa, nhưng đấy là thứ lửa khác/ chú thích của người viết] thế giới cứ tiến triển theo thứ nhịp điệu mù lòa,

 

***

tôi mãi mãi là giọt nước đầu mùa để rưới vào nỗi đau khổ trong mắt em,

.
tôi đã tự tạo ra cho mình một người tình, và bao giờ  cũng đặt câu ấy lên đầu trang viết mỗi khi thư cho nàng, giống như khi người ta đặt niên đại của một triều đại ở đầu một văn bản có tính chất kinh tế chính trị, hay đầu một đơn xin việc, hay đầu một thông tri của chính phủ, cái cách đặt một tụng ngôn đầy lãng mạn như thế  lên đầu thư [cho nàng] như thế như thể để luôn nhớ rằng cuộc tình của tôi và nàng là bất diệt, sự thật thì tình hình thế giới chẳng mấy bình yên, các cuộc nổi dậy giành độc lập của các xứ sở nghèo khó từ lâu vẫn sống dưới ách cai trị của những đế quốc tư bản châu Âu châu Mỹ, thời đại đang tốn quá nhiều công sức cho những hội họp quốc tế, thực ra chỉ là những cuộc gặp gỡ giữa các ông chủ các nước lớn để bàn bạc thảo luận về cách nhả ra, hay tiếp tục nuốt vào những miếng mồi thuộc địa họ đã tậu được từ những thế kỷ trước, những bàn bạc thảo luận không thiếu thứ ngôn ngữ khoác màu nhân bản làm như thể nhân loại đang đùm bọc nhau miếng cơm manh áo, thực ra đấy là những cảm hứng đầy tính man dại,

.
một cuộc tình lạc lõng giữa một thế giới chao đảo, nhưng tôi thì cứ muốn mãi mãi làm giọt nước đầu mùa để rưới vào nỗi đau khổ trong mắt nàng, 

thế giới có vẻ như bức tranh kỳ dị của những nhà hội họa tài hoa của thời đại [các nhà nghiên cứu nghệ thuật chưa kịp đặt tên và xếp loại] lòng kiêm ái trị nước đang rộ lên khắp nơi qua những phát ngôn của đám chủ các nước lớn, làm như thể loài người đang vui vẻ bước vào nền luân lý mới, quả tình tôi đã nghe thấy từ máy thu thanh những giọng nói gần như sắp khóc của đám chủ  các nước lớn mỗi lần nhắc đến mấy từ đồng bào,  nhân loại, cái cách xúc động quá tân tiến của những con người đã bỏ ra công sức, tiền bạc, và đôi khi phải bỏ ra cả những mưu mô đen tối để được đám người bị trị tức đám dân trong một nước chọn làm kẻ trị nước, cách xúc động khiến tôi luôn cảm thấy mình đang bị tổn thương ghê gớm, quả tình là tôi đã nghe thấy rất nhiều  những ngôn ngữ lớn lao đầy tính nhân bản của đám người hạ tiện chẳng hiểu sao lại trở thành kẻ trị nước, tôi muốn nói đến cái thế giới mà sự tàn nhẫn đang được nuôi dưỡng,  

tôi đã tự tạo ra những cuộc hò hẹn với người tôi yêu, anh nhìn kìa, những đám người buồn bã đang cúi mặt đi dưới ánh mặt trời, nàng nói, chúng tôi đang thảo luận về thế giới, buổi sớm mai, tiếng rao hàng rong và tiếng xe cộ trên đường phố, những ánh mắt ngờ vực của những người đi đường về những mưu toan chính trường bọn cường khấu thời đại đã phác thảo trong đêm, bất chợt tôi nhìn thấy nơi ánh mắt nàng  đang cưu mang điều gì như thể là ngôn ngữ của thi ca, em, đoạn khúc buồn của thế kỷ lênh đênh giữa niềm ưu tư của  năm tháng, tôi đọc to lên, và ôm chặt người nàng, em đang ngấm vào cuộc nghìn năm của đất nước, tôi nói, và biết rằng tất cả những thứ ấy rồi sẽ tan chảy vào dòng ký ức bầy đàn, 

.

ở một nơi nào đó trên mặt đất đang nổ tung thứ cơ ngơi cũ kỹ, hình như việc nàng hóa thân thành thi ca gây tác động có tính toàn cầu, một chế độ bất nhân đang sụp đổ, đám dân chúng của xứ sở ấy vừa đọc nàng [đã hóa thành thơ] vừa sơn sửa lại những thành quách lâu đài của triều đại cũ,
.

tôi và nàng trù tính khi tìm ra được hành tinh có sự sống ở ngoài thế giới cũ kỹ này, chúng tôi sẽ dời cuộc tình của chúng tôi đến đó, khi ấy, có lẽ là sẽ làm mếch lòng [rất nhiều] ngài Platon, nhà hiền triết của xứ sở Athenes hồi thế kỷ thứ năm trước công nguyên, người từng muốn đuổi cổ hết thảy đám thi sĩ ra khỏi nước cộng hòa của ông, là chúng tôi sẽ dựng cổng vào cõi đời mới, với biển đề: nơi chỉ dành cho những người đang yêu nhau,
.

hết thảy như trong giấc mộng mà tôi thì muốn mãi mãi là giọt nước đầu mùa để rưới vào nỗi đau khổ trong mắt em, thì tôi cứ kêu lên vu vơ thế cho bớt cô độc trong những ngày mùa xuân hoa dại nở khắp các bờ rao làng tôi,

 

***

mùa xuân như không lường trước được mọi sự, lũ ong hút mật hoa bỗng trốn hết vào những tăm tối, ở bên dưới những lớp lá mục  hay bên dưới đám xương đang rã mục của những loài thú đang tuyệt chủng, hay ở bên trong những ngôi nhà hoang, tự dưng con người rùng rùng rời bỏ nơi cư trú của mình để tiến về  miền ẩn ức những nơi chốn có thể cũng đem lại chết chóc không kém nơi vừa rời bỏ, bầu trời như hẹp lại, lũ chim không còn chỗ để bay, thôi trò chuyện, rừng im lắng như buổi nguyên sơ, a có ai đó đang lẫn vào đám sao trời đang triển nở, khởi thủy là cuộc trốn chạy chăng, có ai đó đang gào lên giữa cuộc giao tranh nghi ngút máu xương, hay đấy chỉ là những hình ảnh không thật về mùa xuân trong nghĩ ngợi rối rắm của tôi,

 

***

 

rốt cuộc thì thằng Báng con chú Sáu Liệu cũng đã lên rừng theo cách mạng và quay về làng bắn chết anh Hai Hợp tôi, chị Hai Hợp nói vào khoảng gần nửa đêm thì có tiếng gọi cửa, dậy đi, lính giải phóng đây, nghe giọng nói của thằng Báng con chú sáu Liệu, hai hàm răng chị Hai Hợp va nhau lập cập, còn anh Hai Hợp chỉ còn đủ sức chui xuống gầm giường để trốn, mở cửa xong, chị Hai Hợp như không còn thể đứng trên đôi chân của mình, chị quị xuống, và lũ con Me thằng Muồi thức dậy khóc như ong, bấy giờ, trong bóng tối của căn nhà là một cảnh tượng của tàn lụi: cả vợ chồng con cái anh Hai Hợp đều ngã ra bất tỉnh, cho đến khi nghe súng nổ ở bên ngoài, chị Hai Hợp mới vùng dậy chạy ra sân thì thấy anh Hai Hợp đã bị bắn chết, dưới ánh sao  của đêm tháng giêng, chị Hai Hợp thấy anh Hai Hợp nằm chết trên vũng máu, chuyện chỉ đơn giản thế, thằng Báng bắn anh Hai Hợp xong thì ra đường làng nói to lên: xin báo cho bà con trong làng rõ cách mạng đã xử tử Trần Hợp về tội làm gián điệp cho đám lính Đại Hàn chỗ bờ sông Tượng, thằng Bảng cứ hô lên thế trong khi nó biết tỏng người làng tôi ai cũng biết anh Hai Hợp tôi chẳng dính dáng chi với đám lính Đại Hàn,

***

cha mẹ tôi và tôi cứ lặng người đi, qua lời kể của chị Hai Hợp, chúng tôi đã biết cái cách thằng Báng con chú Sáu Liệu bắn anh tôi, trời chưa sáng thì cha mẹ tôi và tôi đã sang nhà anh Hai Hợp, từ lúc nghe chó sủa trong làng, cả nhà tôi không còn ngủ được nữa bời cứ linh tính  một điều gì đó chẳng lành đang xảy ra, chị Hai Hợp kể xong chuyện cả nhà chị đã hoảng loạn thế nào anh Hai Hợp nằm trên vũng máu lênh láng ra sao rồi cứ ngồi tỉnh bơ, cả lũ con Me thằng Muồi cũng ngồi tỉnh bơ, làm như thể bọn họ không còn nước mắt để khóc,

***

đi chôn anh Hai Hợp về, tôi cứ thấy như mình đang lơ lửng giữa hư không, một sự hụt hẫng quá lớn đang diễn ra trong tôi, xin nhắc lại, thằng Báng con chú Sáu Liệu vì thù oán anh trai tôi đã lên rừng theo cách mạng rồi xách súng về làng bắn chết anh tôi, biết thằng Báng làm bừa, nhưng nhà tôi chẳng dám than thở lời nào, đêm ấy, cha tôi ngồi nghĩ ngợi suốt đêm bên bàn trà, mẹ tôi cũng không ngủ, bà ngồi im trên giường để thở dài, chốc chốc tôi lại nghe tiếng thở dài não nuột của mẹ tôi, tôi biết cái chết của anh trai tôi giống như cha mẹ tôi đang bể thịt da của mình, đêm ấy tôi cũng không ngủ, nằm nghĩ cách thay đổi thế giới, đêm tháng giêng lũ dế như vẫn còn say mê với cuộc chuyển mùa, như thể chúng đang vét hết sức lực để nói cho muôn loài biết rằng thực sự chỉ có mùa xuân mới làm cho giống loài chúng thấy vui, tôi nghe như những cánh cửa mở ra thế giới đang đổ, thứ bản lề ảo ảnh không còn giữ nổi những cánh cửa làm bằng thứ ngôn ngữ đa phức có cả những chân phương, có cả những ẩn dụ, phúng dụ, mỹ dụ, có cả những điên rồ, cuồng loạn, những trăm năm nghìn năm, chúng, những cánh cửa mở ra thế giới vẫn cứ tưởng mình là  kinh điển của loài người, những thế kỷ của bình minh nhân loại, những thế kỷ của phục hưng, của ánh sáng, của khai sáng, của cách mạng, đấy, những tên gọi đẹp như hoa gấm như vọng xuống tự chốn trên cao, những trăm năm nghìn năm, chúng, những cánh của mở ra thế giới cứ tưởng mình là khuôn mẫu của cây lúa, khuôn mẫu của ăn mặc, khuôn mẫu của giấc ngủ, khuôn mẫu của cách hôn nhau, chữ nghĩa mô tả về chúng cứ dài ra, hóa thân thành văn chương, triết học, thành những cuộc vui điên khùng,  thành những đại tiệc thử giả làm cầm thú, hay cố thử làm cầm thú, người đi, cánh rừng xưa vắng khúc hát lá đổ, nhân loại thoi thóp chờ cuộc kết cuộc, đêm, tôi cứ thử nhìn về khoảng thế giới trống hoác bên kia những cánh cửa vừa mở ra, thấy vẫn khoảng trời cũ ấy, lũ chim đang cãi nhau về ý nghĩa của các mùa, vẫn những con người cũ ấy đang nhảy múa giữa chốn chính trường đầy xác chữ và xác người, 

 

***

 

nhưng người là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, chỉ muốn nghe người nói tại vì sao con người lại để vấy máu nhau, đất đai không còn là chốn hòa giải, những nghìn năm tổ tiên gồng gánh lòng biết ơnđất đai đi trên con đường xứ sở, rồi những tiếng động hờ, sử lịch, những bước chân đi lạc về phía bụi bặm cứ thêm lên, nhưng người là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi chứa muôn nghìn gian lao lận đận, chỉ muốn nghe người nói có phải giờ đất đai không còn là chốn ngang qua những giông gió minh triết thổi bùng khí phách những con đường,

 

***

vậy thì tôi phải bước đi trên những con đường nào,  một mảnh trần thế lạc đường về, hay một đơn vị nhân loại chưa biết cách đọc những bảng chỉ dẫn đường cắm dọc các nẻo đường vạn dặm, đồ tồi, tôi nghe như có ai đó nguyền rủa tôi, hãy mở to mắt ra cho ánh sánh chân lý soi rọi vào, giọng nói có vẻ chẳng ra vẻ nhà hiền triết chút nào, vào hôm tôi mệt lã ven đường có ai đó quát đuổi tôi, hãy tránh ra đi, tôi thấy người ta gỡ bỏ lớp đất mặt đường và thay vào đó văn bản chi chít những mẫu tự hình nêm, tôi gắng nhìn thử, những con chữ cứ giống những con cua  màu đen bò qua mắt tôi, có tiếng lũ quạ đánh đuổi nhau, thì ra không phải là lũ cua, mà là lũ quạ đã đánh hơi thấy những xác chữ trên đường, tôi đang cố nhớ lại là đã đọc những thứ đó ở đâu đó thì đám người dáng vẻ như những nô lệ nhếch nhác tôi đã nhìn thấy minh họa ở đâu đó tràn đến, lũ quạ hoảng hốt bay đi, mùa thu bắt đầu ngân nga những trường đoạn buồn mà lộ rõ những mưu toan, lũ các người là sự tính toán sai lầm của tạo tác, hay trong lúc tạo tác bận rộn việc các mùa, đồng loại lũ các người đã biến lũ các người thành ra thế, mùa thu hát, và con đường cứ dài ra những triều đại xây trên gỗ quí, đá quí, và xác đám người nô lệ, những đền đài cung điện của vua  sẽ ngã bóng ân huệ lên cả cuộc đời của lũ các người, dường như có phái viên của một nền thống trị đến nói với đám nô lệ, và tôi nghe như có tiếng gầm đâu đó trên mặt đất, tiếng những con thú bị thương, không phải, và tôi thấy như mùa thu đang bị kẹt trong những đống đổ nát của các triều đại, tôi lại bước đi giữa sự ngơ ngác của thời gian, vào hôm tôi đứng ngắm con nước nửa muốn chảy đi nửa muốn ngừng lại trên dòng sông thì những nhà thông thái đội mũ nồi [kiểu những đầu bếp chế biến thức ăn] bắt đầu gỡ bỏ những văn bản mẫu tự hình nêm trên các nẻo đường và thay vào đó những bài ca, mùa thu lại ngân nga những trường đọan mới, vui mà tiềm ẩn những màu sắc điêu tàn, người đi rộn xóm thôn, và nói rặt những điều giống nhau, những thế kỷ cứ lập đi lập lại rặt những giọng nói như thế, về sự canh tân cơm áo, canh tân nhân quyền, những thế kỷ cứ lập đi lập lại rặt những cách thức như thế, bạo lực, và lật đổ, những nhà thông thái đội mũ nồi [kiểu những đầu bếp chế biến thức ăn] cứ đem những bài ca vừa làm được trải lên các nẻo đường trên mặt đất, các bài ca cứ chồng chất lên nhau, thành ra thế giới là một cuộc ca hát bất tận, dối trá bắt đầu len vào minh triết, đám người tham gia cuộc làm mới thế giới sau khi đánh đổ bọn thống trị bất nhân lại trở thành đám thống trị mới còn hèn hạ hơn đám thống trị vừa bị đánh đổ, rụng những chiều thu u ám cả tiếng cười trẻ thơ, tôi lại bước đi giữa sự ngơ ngác của chính tôi, tôi đã đi thật xa nơi bắt đầu, hay đang lạc vào nẻo đường có những kẻ có khuôn mặt người đã bị lấy bớt,

***

nhưng người là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, chỉ muốn nghe người nói tại vì đâu con người lại đem những tri thức khiếm khuyết của mình biến thành những thuyết lý này nọ những nghìn năm qua vẫn tiếp tục làm rối rắm nhân loại,  người nói người cũng thấy thế, nhưng đấy chỉ là thí dụ trong muôn ngàn chuyện của đám nhân loại của tôi, cứ đi hỏi thử bọn họ, người bảo, tôi nói lửa đã cháy khắp nơi, thực sự là nhân loại đang thù địch nhau, và tôi, kẻ đang ngắc ngoải sống, người là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, chỉ muốn nghe người nói tại vì sao con người là con vật có tư duy lại làm những chuyện như thế, người nói người cũng không biết tại vì sao đám nhân loại của tôi lại làm như thế, nhưng hình như ngươi chỉ nói ra được những điều ngươi nhìn thấy, chứ không cắt nghĩa được đâu, người bảo,

 

***

 

vậy thì sự thù địch nó là gì, thứ mảnh tai ương nhập nhòa trong tâm thức khi ta mới chào đời, nhưng nói thế là đổ thừa cho tạo tác, hay sự thù địch chỉ là những tai họa bên bờ sử lịch,  hay từ thứ thời gian có tên là lịch sử ngoi lên những mù lòa, tôi cứ thấy như có lũ người tiền homo, lũ khỉ người đang cầm đầu bầy đàn người với những tên gọi đường hoàng kèm theo chức vị, địa vị, học vị đang lợi dụng tiếng người để lừa dối bầy đàn của mình, ngày ngày chúng cố phủ lên mặt đất này những tuyên ngôn, tuyên bố, thậm chí là những dạy bảo theo kiểu vua dạy bảo bề tôi [tôi đã nhìn thấy những gương mặt vênh váo rất khỉ người của chúng, và cứ muốn thét lên những lời thô bỉ] sự sáng tạo ra ngôn ngữ của tổ tiên bị xúc phạm ghê gớm, thời đại loạn của ngôn ngữ, không phải theo kiểu Babel, mà theo kiểu lật đổ và sụp đổ, đánh mất lòng trắc ẩn, đánh mất đường biên chân giả, mù lòa dẫn đến thù địch, nói cho cổ điển một chút là vua đang thù địch thần dân, và thần dân đang thù địch vua, tôi cứ thấy như có dòng nham thạch bẩn, và tàn bạo, đang âm thầm chảy qua cuộc sống bầy đàn,

 

***

hết thảy vẫn như cũ, mấy cái lô cốt trên núi Đất vẫn đứng đó, đêm đến những viên chức địa phương vẫn đến đó để ngủ, trong số những viên chức địa phươg có người đêm đến thì xuống quận lỵ ngủ, đêm nghe có tiếng chó sủa trong làng thì đèn chiếu sáng lại được bắn đi từ mấy cái lô cốt đó, bắn xuống đồng làng, hay bắn thẳng vào làng, cái đồn lính Đại Hàn chỗ bờ sông Tượng cũng vẫn còn đó, người làng tôi ai cũng biết chuyện hoàng hôn  đổ xuống là  đám lính Đại Hàn lại kéo nhau đi phục kích ở bốn chung quanh, cũng với thứ chiến thuật đánh lừa đối phương, một cõng một, lâu lâu lính bảo an dưới quận cũng kéo lên phục kích trên đồng làng tôi, nếu có bắn nhau, thì sáng hôm sau người làng tôi sẽ nhìn người của hai bên nằm chết trên đồng làng, ở những nơi khác thế nào tôi không  biết, nhưng ở quê tôi thì các lực lượng chiến tranh có vẻ rất vững vàng, có nghĩa, chẳng thấy có dấu hiệu gì là sắp kết thúc, những người kháng chiến ở trên núi vẫn xuống làng vận động tuyên truyền cho công cuộc giải phóng đất nước, hay để lấy lương thực, trai tráng trong làng tới tuổi thành niên nếu không muốn trở thành lính quốc gia thì lên rừng theo quân giải phóng, bác Tám Bảng lâu lâu lại ra ngõ đứng chửi, bộ lũ bay muốn chết sao, ông chửi ai, không ai rõ, chú Đạc xã trường của xã thì như ngày nào cũng trên lưng ngựa đi giữa sa trường, các người ăn cơm quốc gia thì phải trung thành với chính thể quốc gia, nhớ đấy, lúc nào chú ấy cũng nói câu ấy với những người làng đến xã để nhờ chú  ký các thứ giấy tờ, bác Bảy Bính vẫn đến nhà tôi chơi, sau cái chết của anh tôi, dường bác ấy không còn nhắc đến cái quá khứ cách mạng vẻ vang của bác ấy, nhưng vẫn hằn học với con trai của mình, giờ thì chính quyền quốc gia là cha mẹ nó, bao nhiêu năm rồi thằng con bất hiếu của tôi chẳng còn bước chân về ngôi nhà nó đã sinh ra ở đấy, bác Bảy Bính nói với cha tôi, và rơi nước mắt,  chú Hai Ngộ thì ngày nào cũng đến nhà tôi mua nửa xị rượu, uống trước một chén trước mắt cha tôi để nói ra  một câu gì đấy trước khi ra về, hết thảy vẫn như cũ, chỉ có cha mẹ anh em tôi, cái họ Trần nhà tôi là như đang rơi vào cảnh lụi tàn,

***

tôi gõ cửa nhà anh chị tôi vào lúc giữa trưa, chỉ vào giờ ấy chị Hai Hợp tôi mới có ở nhà, cứ sáng ra, sắp xếp đứa nào đi học đứa nào ở nhà giữ thằng út thì ở trong nhà đóng chặt cửa, xong đâu đấy chị lại ra đồng làng, làm như thể chỉ ở đồng làng chị mới thấy gần gũi với anh Hai Hợp  tôi, nhưng cái cách phòng thủ của chị Hai Hợp là lúc nào có người trong nhà thì đóng chặc cửa đã khiến cho việc giữa trưa tôi đến gõ cửa để thăm hỏi chị trở thành tai họa, chị Hai Hợp tôi đã bò lên sàn nhà lúc nghe tôi gỏ cửa, cái vết thương quá lớn và như thể chẳng thể nào lành đang tồn tại trong nhận thức của chị tôi, có tiếng gõ cửa là có cách mạng đến nhà và sau đó là có chết chóc, chính là thằng  Báng con trai chú Sáu Liệu ở làng tôi đã làm chấn thương  tâm hồn trong trắng của người phụ nữ cả đời chỉ dành tình cảm mình cho đàn con và đám ruộng trên đồng làng, bấy giờ là con Me, đứa con gái đầu lòng của anh chị tôi, đã mở cửa cho tôi, và khi tôi bước vào nhà, chị tôi vẫn còn nằm bất tỉnh trên sàn nhà, em là  Đàn đây mà chị, tôi nói, đến khi nghe giọng nói của tôi, chỉ mới mở mắt nhìn, một thứ thảm trạng nhân sinh, hay còn gọi là gì nhỉ, đã thêm vào danh mục buồn bã của bầy đàn, thứ danh mục tệ hại nhất, tiếng con sói tru giữa đêm rừng hay con hổ đói ngồi chờ nơi cửa động trong đêm tiền sử cũng ít kinh khiếp hơn là con người khát máu đồng loại mình, chú làm tôi sợ đến hụt hơi, chị tôi đã hoàn hồn, ngồi dậy khoanh tay lên gối, nhìn tôi, em sẽ bảo vệ chị, đừng sợ, tôi nói, chị tôi mỉm cười, vẻ gắng gượng, bỡi lẽ chị ấy biết rất rõ, rằng, tôi cũng chỉ đủ sức để  nói ra những lời an ủi, chính là tiếng gõ cửa của thằng Báng con chú Sáu Liệu ở làng tôi đã làm chấn thương cuộc sống bầy đàn, tôi lại vội vã  xua đuổi ý nghĩ ấy đi vì không biết là mình đã suy nghĩ thấu đáo chưa, nhưng cứ nghe như đang vang lên đâu đó những tiếng gỏ cửa,

***

cái chết của anh Hai Hợp tôi [bị một đứa con trai mười bảy tuổi ở trong làng bắn chết vì thù oán không đâu] như sự thất bại của cha tôi trong sự giữ gìn sự sống cho những đứa con của mình, anh Hai Hợp tôi mới mười bảy tuổi cha tôi đã để cho anh ấy lập gia thất tiếp tục nghiệp cày cuốc, con đường mà cha tôi cho là an toàn nhất trong những con đường đi đến phía trước, lấy nghiệp cày cuốc làm gốc, triết lý an vi [hay tự an ủi mình] của tổ tiên tôi, rồi vuôn cải nơi sân nhà anh tôi lên xanh, những đứa cháu yêu vọc bũn ở hiên hè, hay chàng trai trẻ  nón lá chân đất thư thả theo lũ bò trên ruộng là anh tôi, tất cả thứ quang cảnh ấy như những bức tranh tĩnh vật thật đẹp khiến cho cha tôi vui, nhất định là trong những tháng năm ấy ông đã nhìn thấy một thứ hạnh phúc có vẻ vĩnh cửu trong cuộc sống của con trai mình, việc anh tôi ngã xuống chết trong thứ triết lý an vi ấy như một cú đánh quá mạnh vào nhận thức của cha tôi, giờ ông hoảng hốt quay sang canh giữ tôi, cuộc canh giữ lần này của cha tôi, theo tôi, chỉ là cuộc níu giữ mong manh, đêm nghe tiếng chó sủa trong làng cha tôi lặng lẽ đến ngồi nơi giường nằm của tôi, khác với cách canh giữ của mẹ tôi là đêm không ngủ, ngồi lặng lẽ trên giường để buông tiếng thở dài, cả cuộc đời mẹ tôi là những tiếng thở dài, bà đang thở dài về cái chết của anh tôi và về sự sống còn của tôi, tiếng chó sủa trong đêm ở làng tôi là thứ tín hiệu của phía tàn lụi, có thể sau đó là cuộc đụng độ ngay trong làng giữa các phe phái chiến tranh, súng nổ, và trong số những người chết có thể có tôi, cũng có thể sau tiếng chó sủa là những cuộc thanh trừng của các hệ tư tưởng trong cuộc xung đột lịch sử, và nạn nhân cuộc thanh trừng cũng có thể là tôi, tôi biết cái mô hình thời cuộc ấy đang đe dọa cha tôi, ông cứ lặng lẽ ngồi ở nơi giường nằm của tôi như thế, còn tôi thì vờ ngủ say để chờ cho niềm lo lắng của cha tôi lắng xuống, tôi vờ thức giấc, ngồi dậy, sờ lên bàn tay gầy guộc của cha tôi: con không sao đâu, cha đi ngủ, kẻo ốm, tôi nói, cha tôi lại lặng lẽ đứng lên, và tôi lại lặng lẽ nằm xuống, một thứ tâm trạng kỳ quặc diễn ra, không còn thấy lo sợ, mà những tra vấn có tính bản thể luận cứ dấy lên trong nghĩ ngợi của tôi: vậy thì cha tôi có đủ sức chống đỡ những tai họa của thế giới, nhưng vì sao thế giới lại là tai họa, và liệu ông có canh giữ được tôi, nhưng cuộc canh giữ anh em tôi của cha tôi chẳng có nghĩa gì so với những cuộc canh giữ trong lịch sử, con người quả đã lừa nhau bằng cách bày ra những trò canh giữ nhau, vậy đấy, những trăm năm trước có ông lão đi nói với thiên hạ rằng kẻ đứng đầu bầy đàn là đẻ ở trên trời, tôi nhớ thế, ông lão bận áo vải mang giày vải đi khắp thiên hạ để rao truyền thứ triết lý ở trên trời, đồ đểu, có kẻ nguyền rủa, nhưng ông lão vẫn cứ lừa được thiên hạ bằng những cuốn sách đặc quánh sự phù phiếm, một chút lửa bếp, một chút giọng nói ở trên cao, những trăm năm sau nghìn năm sau vẫn cứ còn rất nhiều kẻ bị ông lừa [trong đó có cả những nhà học thuật tài ba] những trăm năm sau vẫn còn có kẻ nhảy lên cầm đầu bầy đàn tự xưng là đang xiển dương thứ triết lý nói kẻ đứng đầu bầy đàn là đẻ ở trên trời, đồ chó, có kẻ trong thiên hạ nguyền rủa, nhưng hắn vẫn cứ cầm đầu bầy đàn, vẫn cứ lấy cái chết kẻ khác như bứt một cộng cỏ, vẫn cứ lấy đất đai kẻ khác như lấy một mẫu bánh với những tuyên bố đầy chất thiên mệnh, hóa ra, bấy lâu, những kẻ đứng đầu các bầy đàn đã canh giữ bầy đàn mình bằng cách sử dụng thứ ngôn ngữ đẹp và đầy ân sủng của nhân loại: huyền thoại, thế giới là những cuộc canh giữ khốn nạn,người đi để lại xác nắng quái chiều hôm và nỗi kinh hoàng,

 

***

 

cuộc chống đỡ thế giới và canh giữ hai đứa con trai của cha tôi đã làm ông kiệt sức, cha tôi ngã bệnh, nằm xuống với tình trạng của một người bị ốm lâu năm, thầy trụ trì ngôi chùa trong làng, cũng là vị y sư thuốc nam nổi tiếng trong vùng,  đến thăm và bắt mạch cho cha tôi, rồi kêu riêng tôi: ông cụ, châu thân đã bị hao tổn quá nhiều, đã đến lúc mạch chỉ về đường tử nhiều hơn là chỉ về đường sinh, chú Đàn phải đưa ông cụ đến một bệnh viện danh tiếng nhất mới mong cứu chữa được,

 

***

 

tôi không muốn cho câu chuyện kể của mình thêm phần ảm đạm nên chỉ nói gọn lại ở đây cái cảnh chia tay của cha mẹ tôi để cha tôi đi chữa bệnh, tôi đã thuê nguyên một chiếc xe lam ba bánh chạy vào sân nhà tôi để chở cha tôi xuống tỉnh chữa bệnh, sau khi tôi ẵm cha tôi đặt nằm lên chiếc băng ngồi trên xe lam, mẹ tôi đến nắm tay ông, khóc: ông nhớ chữa khỏi bệnh trở về nhà, đừng bày chết, bỏ tôi lại một mình, mẹ tôi nói, nước mắt ràn rụa, không phải nước mắt  mẹ tôi, mà là nước mắt bầy đàn,  cha tôi khỏa tay, ra hiệu bảo mẹ tôi hãy vào nhà đi, rồi từ từ khép hai mi mắt lại, tôi như nhìn thấy có một bầu trời đang từ từ hạ xuống nơi đôi mắt vừa khép lại của cha tôi, bầu trời nào, tôi không nghĩ ra,

***

ở bệnh viện Thánh Gia ở Thi Nại, bệnh viện do các xơ ở giáo phận công giáo Thi Nai lập ra để chữa bệnh từ thiện nổi tiếng với việc điều trị bệnh, các thầy thuốc biết bệnh tình cha tôi không thể còn điều trị được nữa, đã đến lúc các thứ lục phủ ngũ tạng của ông đều hư cả, nên đã trình báo với xơ giám đốc bệnh viện biết để lo liệu nếu ông trút hơi thở cuối cùng ở đây, xơ giám đốc đã đích thân thăm  hỏi cha tôi,  thưa, cụ có theo đạo Chúa hay không, xơ giám đốc hỏi, không hiểu sao cha tôi liền gật đầu bảo có, tôi nhớ là trước đó mấy tháng chú Đạc xã trưởng có đến nhà khuyên cha tôi nên vào đạo Chúa để được các nước đồng minh giúp đỡ, anh biết không, hằng tháng tôi nhận được viện trợ Mỹ đến gần nửa tấn gạo, chú Đạc xã trưởng trình bày cái lợi khi vào đạo Chúa, cha tôi nghe và chỉ ậm ừ bảo để ông nghĩ đã, vô đạo Chúa thì không thờ cúng ông bà coi như vứt bỏ tổ tiên, nhưng không theo, chính quyền quốc gia họ có làm khó dễ gì  hay không, cha tôi đã thở vắn thở dài về chuyện ấy với tôi vào một ngày làng có quá nhiều biến động, hay là  nỗi lo sợ ấy vẫn ám ảnh cha tôi cho đến phút cuối khiến ông phải nói dối với xơ giám đốc bệnh viện Thánh Gia là mình có đạo Chúa, liền sau đó hai vị linh mục đã  đến làm lễ rửa tội cho cha tôi, ở trên giường bệnh cha tôi nằm nhắm mắt im lặng như thể để nghe các vị thầy tu cầu kinh cho mình, tôi cũng đứng lặng người, không phải để lắng nghe các vị thầy tu mà để lắng nghe tôi đang nghĩ gì về người cha khốn khổ  của mình, thật ra thì cha tôi đã trút hơi cuối cùng sau khi  trả lời xơ giám đốc bệnh viện rằng  ông có đạo Chúa, xơ giám đốc đi rồi, tôi  úp mặt lên người cha tôi và cố nén để khỏi bật khóc bỡi  hai vị linh mục đã đến, cha tôi chết với tư cách không hơn một cái bóng trong cuộc chuyển động tàn nhẫn  của thế giới,

 

***

 

cứ mỗi lần nhìn mẹ tôi thắp hương bàn thờ khấn vái cha tôi và nước mắt ràn rụa thì tôi lại thấy thứ màu ảm đạm ấy phủ xuống nghĩ ngợi của tôi, tôi biết đấy chỉ là những khoảnh úa héo của  thời gian còn sót lại, những tia nắng chiều thoi thóp trên những đỉnh núi trong dãy núi phía nam làng, hay cái cách vỗ cánh buồn bực của đám chim trời trên bầu trời đồng làng  trước khi quay về núi, chiều xuống thì xảy không biết bao bi thiết của tồn tại, tiếng nấc của con thằn lằn nơi kẹt cửa như cách níu kéo vô vọng của đám con cháu của một loài giống sắp tuyệt chủng, chiều xuống thì vang lên đâu đó, thường là ở phía cuối làng, những âm vang mơ hồ,thứ âm vang thôn dã như cứ dài ra những u mặc của cuộc đời: phần cuối  của tiếng gọi cháu của bà, hoặc cũng có thể là tiếng thở dài của cây lá, hóa ra cái ngôi làng tôi sinh ra và lớn lên ở đó đã mang lại cho tôi nỗi buồn nhiều hơn niềm vui, nhưng không sao, vì tôi đã có mẹ tôi, con chim có đôi cánh lớn luôn mang anh em tôi bay qua những bầu trời rộng lớn, và vì tôi đã có cha tôi, ở cha tôi là thứ triết học về tự nhiên, con chích chòe sở dĩ  gần gụi con người hơn con chim cắt bỡi vì con chim cắt luôn muốn cướp đi của cải của con người, buổi sớm mai con chích chòe đậu nơi bờ giếng  chỉ kêu mấy tiếng chích chích, nhưng đấy là thứ nguyện vọng vĩ đại về sự hợp nhất giữa các loài trong trời đất, cha tôi giảng, cha tôi sinh tôi ra, rồi kiêm luôn làm thầy dạy  của tôi, ông  nói có một cuốn sách lớn tôi phải luôn đọc là thế giới, đấy là một bản vẽ to lớn, sầm uất, và chằng chịt những phạm trù khởi nghiệp và rã nghiệp, một công trình sáng tạo đáng kính và đáng hận, bỡi ở đó sản sinh ra cả vàng lẫn rác rưởi, cha tôi  giảng , chiều hôm ấy tôi đi chụm rượu với cha tôi, và nghe ông giảng về bản phác thảo của ông về những âm vang trong trời đất,  nó, tiếng dế ấy hồn nhiên đến độ làm cho con người phải luôn cúi đầu bái phục, đông hay hè, cứ nghe tiếng dế là liền thấy cái bằng chứng về cuộc sinh tồn,  lúc nào cũng thảnh thót và minh bạch, nhưng  chỗ chưa tới của lũ dế là mùa thu nghe dế kêu chưa thấy buồn, mùa xuân nghe dế kêu chưa thấy vui, cái tri thức của loài giống ấy là chưa  đạt tới chỗ nhận ra những gương mặt  của tồn tại, vào một ngày mùa xuân nào đó, khi nghe tiếng dế cất lên, ta sẽ đọc bảng tường trình của con người về sự bình đẳng tri thức giữa các loài, cha tôi  chấm dứt bài giảng bằng câu nói: phải bình đẳng tri thức giữa các loài, và mới tờ mờ sáng hôm sau ông đã gọi tôi, thằng Đàn dậy đi, cha con tôi ra ngồi ở hiên hè trong mùi cỏ và mùi sương  sớm, dường như hết thảy loài dế trên mặt đất đều kéo đến trong giấc ngủ của ta trong đêm, loài người các người thì biết chi về loài giống bọn ta mà nói, chúng cứ gào lên, giận dữ, cha tôi nói, và thở dài, giờ đây cha tôi không còn nữa để cùng tôi thất bại trong những mưu toan làm thay đổi thế giới,   

 

***

 

nhưng người là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, chỉ muốn nghe người nói có phải là sứ giả của người đã ngự ở khắp nơi, cứ nghe trong gió trong nắng có gì đó vô cùng quyến rủ như thể có bước đi của thần thánh, mới lúc nãy đây, có phải là sứ giả của người đã thét vào lương tri tôi: lũ các người đừng sợ bỡi lũ người làm xiếc cũng chỉ múa may  trong chốc lác,

 

***

 

mẹ tôi khóc cha tôi cho đến khi bà chết mới hết khóc, chú Năm Trử tôi cũng khóc cha tôi cho đến khi ông chết mới hết khóc,

 

***

tôi khóc cha tôi và đọc kinh văn đạo Ruộng của chú tôi, bấy giờ, những lời kinh  ấy cứ như những lời lẽ kỳ dị tàn phá sự hiểu biết của tôi… bọn họ đi chân đất dưới sự dẫn dắt của các vị thần đương đại có thói quen tiêu diệt kẻ thù, cứ đi thẳng tới và đặt một hòn đá ở chỗ lũ người muốn, vào một ngày rực nắng mặt trời bọn họ nghe thấy lời dạy của thần, từ đó là những bông hoa rực nở trên giấy bút, thứ chữ nghĩa làm ra những sự tích kỳ dị, ngựa chiến chạy suốt giữa đám xương tàn của lũ người thất thế, tội lỗi của đám chủ các xứ sở lớn nhỏ trên mặt đất nghìn năm không rửa sạch, từ đó là rã mục những cuộc tình làm bằng niềm rung động chân thật, cạn kiệt những cơn gió màu thạch thiết, tiếng vang của đá nghìn năm, từ đó là nắng quái chiều hôm, guốc gỗ khua sử lịch, máu đọng lại khúc kinh cầu, rồi, giữa đêm thâu có kẻ gác cây cày nơi hiên hè đi thẳng vào tòa lâu đài ấy, ở cuối thôn, có tiếng khóc của trẻ thơ, bà lão chống gậy quờ quạng đi tìm câu hát cũ,

 

 

tháng 3. 2019
tháng 9. 2019