Thơ Tomas Transtromer

PHÁC THẢO THÁNG MƯỜI

Con tàu kéo lốm đốm những rỉ sét. Nó đang làm gì ở đây, tận trong đất liền?
Đó là ngọn đèn nặng nề bị dập tắt trong giá buốt
Nhưng những hàng cây gợn lên màu hoang dã: những tín hiệu gửi đến bờ bên kia
Như thể đang muốn được giải cứu
Trên đường  về nhà, tôi nhìn thấy nấm horsetail mọc lên từ mặt đất đầy cỏ
Chúng là những ngón tay của một người cần được giúp đỡ
người từ lâu thổn thức với chính mình trong bóng tối dưới đó
Chúng ta là những gì thuộc về mặt đất

 

SKETCH IN OCTOBER

The tugboat is freckled with rust. What is it doing here, far
inland?
It’s a heavy, quenched lamp in the cold.
But the trees wave wild colors: signals to the other shore.
As if wanting to be rescued.
On the way home, horsetail mushrooms I see sprout from the grassy
turf.
They are the help-asking fingers of one
who long has sobbed by himself in the dark down there.
We are the earth’s

Windows and stones/New Poems

***

DỌC THEO DÒNG SÔNG 

Trò chuyện với những người cùng thời tôi nghe thấy đằng sau khuôn mặt họ cơn lũ đang cuốn trôi, kéo theo nó niềm mong ước và vô vọng

Sinh vật với đôi mắt mạnh mẽ muốn được ném vào con thác đẩy chính nó về phía trước, không chút run sợ, trong niềm khao khát mãnh liệt về sự giản đơn

Có một thứ lực kéo từ con nước thô bạo mỗi lúc một gia tăng,
ngay nơi con sông hẹp lại và trở thành con thác—nơi tôi dừng chân từ cuộc hành trình xuyên qua những khu rừng khô
đêm tháng Sáu: đài bán dẫn cung cấp chúng tôi những tin tức sau cùng từ cuộc họp khẩn cấp: Kosygin, Eban.[*]
Một ít suy nghĩ xuyên qua niềm tuyệt vọng
Một ít người biến khỏi thành phố
Con lũ tuôn ra từ phía dưới chiếc cầu treo
và vượt qua chúng tôi. Ở đây gỗ trôi tới!  Một vài cây gỗ hướng tới như thể ngư lôi hướng thẳng về phía trước. Những cây gỗ khác chồng chất lên nhau: một cách bướng bỉnh, một cách bất lực xoay vào chỗ không nơi nào cả.
Và rồi thì có một vài người chạy [đến] chống mũi vào bờ sông, hướng về phía những tảng đá và những đám cây gỗ, và bị kẹt ở đó làm thành đống như bàn tay gấp lại
bất động trong cơn giận dữ
Những sự việc như vậy là tôi nghe thấy từ chiếc cầu treo với một vài đứa trẻ trong một đám mây muỗi. Những chiếc xe đạp của chúng bị chôn trong đám cỏ –chỉ còn ló ra những chiếc sừng

___

Ngày 20. 6.1967, thủ tướng Liên Xô lúc bấy giờ là Aleksei Nikolayevich Kosygin đã xuất hiện ở cuộc họp khẩn cấp của Liên hợp quốc về các vấn đề Trung Đông sau cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel vào năm đó. Sau cuộc nói chuyện của Kosygin, Đại sứ Israel tại Liên hợp quốc, Abba Eban, đã lên tiếng bảo vệ các hành động của đất nước ông  đang chống lại Ai Cập, Jordan và Syria.

 

ALONG THE RIVER

Translate by Torgeir Fjeld

Conversing with contemporaries I saw heard behind their faces a flood running, pulling the willing and unwilling into itself.

The creature with cemented eyes who wants to be hurled current-wise into the waterfall throws himself forward, without a shiver, in a furious hunger for simplicity.

There is a pull from the increasingly rough waters,

such as at the point where the river narrows and turns into a waterfall — the place where I rested from a journey through dry woods

one night in June: the transistor gives us the latest news from the emergency session: Kosygin, Eban.[*]
A few thoughts pierce in despair.
A few people are missing from the city.

Floods of water hurls out from under the suspension bridge

and past us. Here comes the timber! Some trees
steer like torpedoes straight forward. Others turn crosswise: stubbornly, helplessly revolving into nowhere,

and then there are some who run their noses against the riverbanks, steering towards the rocks and clusters of wood, and get stuck there to pile up as folded hands

immovable in the thunder.

These things I saw heard from the suspension bridge
with some boys in a cloud of mosquitoes. Their bikes were buried in greenery — only their horns peered out.

_____

 [*]On June 20, 1967 Prime Minister of the then Soviet Union, Aleksei Nikolayevich  Kosygin, appeared at a United Nations emergency meeting on Middle East issues after the Arab-Israeli war of that year. Following Kosygin’s talk, Israeli Ambassador to the UN, Abba Eban, spoke in defense of his country’s actions against Egypt, Jordan, and Syria.
From the collection Seeing in the Dark, Mörkerseende, 1970. Transl. Torgeir Fjeld.)

https://torgeirfjeld.wordpress.com/

***

Ở BÊN DƯỚI BĂNG GIÁ

Chúng tôi đang trong buổi tiệc không mấy thích chúng tôi. Cuối cùng buổi tiệc đã để lộ bộ mặt thật của nó: Một trạm tránh đường cho ô tô chở hàng. Trong sương mù nhưng khối hàng khổng lồ lạnh lùng đứng trên các đường ray. Những chữ phấn nguyệch ngoạc trên các cửa xe.

.

Người ta không thể nói to lên điều đó, nhưng có rất nhiều bạo lực bị kiềm chế ở đây. Điều đó nói lên tại sao những đồ đạc có vẻ nặng nề. Và tại sao khó nhìn thấy sự hiện diện của các thứ khác: một vệt nắng di chuyển trên các tường nhà và trên khu rừng vô hình của những gương mặt lung linh, một lời trong Kinh Thánh không bao giờ được viết xuống: ‘’Hãy đến cùng tôi, bỡi tôi cũng đầy mâu thuẫn như bạn’’

.

Sáng hôm sau tôi làm việc ở một thị trấn khác. Tôi chạy xe tới đó giữa tiếng kêu u u suốt buổi sáng cứ giống như [sự vận hành của] một cái xi lanh màu xanh sẫm. Sao Mai treo trên sương giá. Bọn trẻ con đứng thành nhóm lặng lẽ , đang chờ chuyến xe buýt của trường, những đứa trẻ không được ai cầu nguyện. Ánh sáng cứ mọc lên từ từ như tóc của chúng tôi.

 

BELOW FREEZING

Translate by Robert Bly

We are at a party which doesn’t love us. Finally the party lets the mask fall and shows what it is: a shunting station for freight cars. In the fog cold giants stand on their tracks. A scribble of chalk on the car doors.

One can’t say it aloud, but there is a lot of repressed violence here. That is why the furnishings seem so heavy. And why it is difficult to see the other thing present: a spot of sun that moves over the house walls and over the unaware forest of flickering faces, a biblical saying never let down: “Come unto me, for I am as full of contradictions as you”

I work the next morning in a different town. I drive there in a hum through the dawning hour which resembles a dark blue cylinder. Orion hangs over the frost. Children stand in a silent clump, waiting for the school bus, the children no one prays for. The light grows as gradually as our hair.

— Tomas Tranströmer, from Robert Bly’s book, The Half-Finished Heaven: the best poems of Tomas Tranströmer

***

LỜI BẠT

Tháng chạp. Thụy Điển là con tàu bốc dỡ, đến để dừng lại. Những cột buồm ngập trong bóng tối. Và bóng tối thì dài hơn ngày. Cách thức ở đây là sự lạnh lùng: đến giữa trưa cũng chưa có ánh sáng của ngày, khi đại hí trường mùa đông đã để lộ ra, [thì ngày] được thắp sáng bỡi những đám mây không có thực. Rồi thì đột nhiên ngọn khói trắng cất lên, xoáy tròn từ các thôn làng. Tận trên cao vút, [là] những đám mây. Biển dò dẫm nơi gốc gác của bầu trời, lo lắng nghĩ ngợi, nếu nghe thấy một điều gì đó.  (Nhưng cuộc hành trình mờ mịt trên bóng tối linh hồn, làm ngơ đi một chút con chim có thể đánh động kẻ ngái ngủ với tiếng hót của nó. Rồi những chiếc gương được trút bỏ, đang nhìn thấy một thứ thời gian khác: đó là mùa hè, những ngọn núi rống lên, ánh sáng phồng to lên, con suối giữ lấy vẻ tráng lệ của mặt trời trong đôi tay trong suốt của nó. Nhưng hết thảy đều biến mất, ngay khi cuốn phim kết thúc trong bóng tối)

 

Bây giờ thì những ngôi sao buổi tối cháy lên giữa đám mây. Cây cối, rào giậu, nhà cửa lớn lên, lớn rộng lên với thứ bóng tối câm điếc, sự sụp đổ khủng khiếp. Và bên dưới một ngôi sao được phác họa rõ hơn những ngôi sao khác, mảnh đất bí mật nuôi dưỡng cuộc sống uốn khúc trên tấm X quang của đêm. Thứ bóng tối kéo theo chiếc xe trượt tuyết của nó giữa những ngôi nhà.
Bọn họ chờ.

 

Sáu giờ chiều, và cơn gió thổi đến, mùa xuân với tiếng ồn ã của nó rải theo con đường phố, vỡ ra trong bóng tối tựa đám kỵ mã. Làm thế nào sự gián đoạn đen tối gây náo loạn, rồi im bặt. Rộn lên ở bên trên những ngôi nhà, xen vào tiếng gầm rống này cứ như một giấc mơ. Gió tiếp gió quét qua vịnh biển và tràn qua đại dương tự nó rơi vào sẩm tối. Ở trên cao những ngôi sao sáng lên một cách tuyệt vọng, lóe lên và vụt tắt, bỡi những đám mây đang thi nhau dịch chuyển, ở đó, chỉ khi chúng che lấp ánh sáng, để lộ sự hiện diện của chúng, làm như thể đó là những đám mây trong quá khứ lang thang xuyên qua linh hồn. Khi tôi ngang qua con lộ kiên cố, tôi nghe thấy từ đầu đến cuối lời ầm ĩ tiếng dậm chân của con ngựa ốm từ phía bên trong.

 

Chỗ đổi hướng của cơn bão được ghi dấu bỡi cánh cổng gãy, nó đóng sầm lại, chiếc đèn bão đu đưa trong tay, vài con thú kêu gào sợ hãi trên núi. Trên đường tháo lui, cơn bão giãy dụa trên các mái chuồng bò, làm rung rinh đường dây điện thoại, vọt xuyên qua những tiếng huýt gió từ mọi ô kẽ và pa nô của đêm, và đám cây bất hạnh ngã đổ cành nhánh.

 

Ở đó toát ra giai điệu của những cây kèn bagpipe. Một thứ giai điệu mục tử ập tới, với tiếng vi vu lãng tử của nó. Một cuộc diễu hành. Một khu rừng đang dịch chuyển! Tiếng ồn trong nước bọc lấy mũi con thuyền, và những thăng trầm tăm tối, cuộc du hành của đất và nước, và cái chết đã đến ở bên dưới boang tàu, cái chết ở đây, với chúng ta trên cuộc hành trình của chúng ta: một cuộc du hành, một cuộc vượt thoát không phải huyên náo mà lặng lẽ.

 

Và thế giới một lần nữa luôn giữ chặc chiếc lều của nó. Một ngày mùa hè, và khúc lượn của con sông giữ lấy dây dợ của con tàu gỗ và tiến đến chỗ dừng lại của đất. Cây lily trong nước bơi bằng những ngón chân liền kín đáo trong vòng ôm màu sẫm bất ngờ của mặt hồ trên núi. Đá lăn khỏi bờ vực của bầu trời.

 

Trong buổi hoàng hôn mùa hè những hòn đảo nhô lên trên đường chân trời. Trên con đường chìm dần vào các khu rừng những ngôi làng cũ lui về vòng quay của mùa, tiếng kêu quang quác của chim magpie. Khi năm đánh rơi đôi hài của nó và mặt trời chiếu sáng ở trên cao, cây rừng ra lá, là lúc tràn đầy gió và tha hồ giong buồm. Ở dưới chân núi là rừng thông bị cháy và bị tàn phá, nhưng sự kéo dài của mùa hè con nước ấm sẽ diễn ra, xe trượt tuyết chầm chậm vượt qua những ngọn cây gãy đổ, nghỉ ngơi chốc lác, lại chìm xuống, và lùi ra xa, rời khỏi bãi biển trơ trọi. Và cuối cùng linh hồn của Chúa tựa như con sông Nil: chảy tràn ra và khô cạn, với thứ nhịp điệu trong những cách thức khác nhau trông cậy vào mọi văn bản trong mọi thời đại.

 

Nhưng Nó cũng là cái bất biến, và do vậy hiếm khi được ghi chú ở đây. Nó trải qua con đường  tiến triển một cách mơ hồ.

 

Như con tàu lớn vượt qua sương mù, trừ phi sương mù được coi như một sự vật. Lặng lẽ. Ánh sáng yếu ớt của cây đèn bão là tín hiệu.

 

 

EPILOGUE

Translated by May Swenson and Leif Sjorber

December. Sweden is  hauled-up,
unrigged ship. Stark in twilight stand
her masts. And twilight lasts longer
than day. The way here is stony:
not until noon comes daylight,
when winter’s colosseum is revealed,
lit by unreal clouds. Then suddenly
the white smoke climbs, twirling up
from the villages. Endlessly high, the clouds.
The sea gropes at heaven’s root,
preoccupied and as if listening to something.
(Obscure journeys over the soul’s dark,
half-averted the bird that could arouse
the sleeper with its chirp. Then the glass
is shifted, showing another time:
it is summer, the mountains bellow, swollen
with light, the brook carries the sun’s glitter
in its transparent hand . . . . But all vanishes,
as when a filmstrip ends in the dark.)

Now burns the evening star through cloud.
Trees, fences and houses grow, grow larger
with the dark’s soundless, steepening fall.
And under the star is outlined clear and clearer
the other, secret landscape that lives
the life of contour on night’s X-ray plate.
A shadow draws its sled between the houses.
They wait.

Six PM , and the wind comes
springing with its noise along the street,
bursting i n to the dark like a pack of horsemen.
How the black disruption jangles, then dies down.
Dancing in place the houses stand, stricken
in this roar that is like a dream’s. Gust
after gust sweeps over  the bay, and out
to the open sea that casts itself into darkness.
Overhead the stars flash desperately,
switched on and off by racing clouds
which, only when they veil the light, reveal
their presence, like those clouds of the past
that wander through the soul. When I
pass the stable road I hear through the din
the sick horse’s stamping from within.

The turning point in the storm is marked
by a broken gate that slams and slams, a lantern
that dangles from a hand, some beast that wails
afraid on the mountain. Retreating, thunder
tumbles over the cow-house roofs, twanging
telephone wires, forcing piercing whistles
from every tile and panel of the night,
and the helpless trees throw their branches.

There escapes a tune from the bagpipes!
A bagpipe tune approaches, with its skirl
of freedom. A procession. A wood on the march!
A splashing around a prow, and darkness shifts,
land and water travel. And the dead
who have gone below deck, they are here,
with us on our way: a voyage, a crossing
that is not tempestuous but calm.

And the world constantly pitches its tent
anew. A summer day, and the wind takes hold
of the oak’s tackle and hauls up the earth.
The water lily paddles on its hidden web foot
within the tarn’s swift dark embrace.
A boulder is rolled away from the rim of space.

In summer twilight the islands rise
above the horizon. The old villages withdraw,
are on their way deeper into the woods,
with the season’s wheel, the magpie’s squawk.
When the year kicks off its boots
and the sun shinnies higher, trees take leaf,
are filled with wind and sail out freely.
At the mountain’s foot the burnt and blasted pinewood,
but summer’s long tepid surf will come,
drag through the fallen treetops slowly, rest
a moment, then sink lower, and recede,
leaving the leafless beach. And ultimately
God’s soul is like the Nile: it overflows
and dries up, with a rhythm reckoned variously
in all the texts throughout the ages.

 

But He is also unchangeable,
and therefore seldom noticed here.
He crosses the path of march obliquely.

Like the vessel that passes through fog
without the fog observing a thing. Silence.
The lantern’s slender shine is the signal.

Windows and Stones /17 Poems-