THƠ JORGES LOUIS BORGES

 

MI KHÔNG PHẢI LÀ NHỮNG NGƯỜI KHÁC

Những trước tác ai đó để lại
Sự khẩn cầu [đầy nỗi] sợ hãi của mi sẽ không cứu nổi mi [đâu]
Mi đâu phải là những người  khác, và chính mi [sẽ] nhìn thấy mi
Bây giờ thì [mi] đang ở giữa mê cung được dệt nên
Bỡi chính bước chân mi. Nỗi thống khổ của Chúa hay
Của Socrate sẽ không cứu nổi mi, cũng sẽ không phải
Sức mạnh của Đức Phật tôn quí cứu nổi mi
Hãy chấp nhận cái chết vào lúc cuối ngày
Trong khu vườn. Những chữ được viết ra
Bằng bàn tay của mi hay những lời được nói ra
Từ đôi môi của mi, những thứ này đều là cát bụi. Số phận
                                                                           chẳng thương tiếc [mi]
Và đêm của Chúa thì vô tận
Chuyện của mi là thời gian, cái không ngừng nghỉ
Thời gian. Mi là từng khoảnh khắc cô độc

 

 

ADAM LÀ TRO TÀN CỦA MI

Ngọn gươm rồi sẽ chết y như chùm trái cây chín rụng
Gương chưa hẳn dễ vỡ hơn đá
Mọi hiện hữu trên đời đều thấy trước chúng là cát bụi
Sắt thì  rỉ sét. Giọng nói hẳn là thứ tiếng dội nghìn năm
A dam, người cha thời trai trẻ, là tro tàn của mi
Khu vườn sau rốt cũng là khu vườn đầu tiên
Chim sơn ca và nhà thơ kinh điển  Pindar đều là nghững giọng nói
Binh minh [cũng chỉ] là ánh chiếu của hoàng hôn
Mycenaean giai đọan cuối thời đại đồ đồng Hy Lạp cổ đại, chiếc mặt nạ
                                                                      chết bằng vàng của nó
Tường thành cao ngất, cõi điêu tàn ô nhục
Urquiza, người đã để lại cho đời sau chiếc dao găm
Chính là khuôn mặt nhìn thấy trong gương
Không phải khuôn mặt của ngày hôm qua. Đêm
Làm tiêu tan nó. Thời gian mong manh đã hun đúc chúng ta

 

Niềm vui nào biến thành thứ nước không thể nào thương tích
Điều đó hẳn chảy qua ngụ ngôn
Của Heraclitus, hay ngọn lửa rối ren
Nhưng bây giờ trong một ngày dài không thể kết thúc
Ta cảm thấy không thể thay đổi và cô đơn

 

 

CUỘC TUẦN HOÀN CỦA ĐÊM

Gửi Sylvina Bullrich (*)

Họ biết, những học trò nhiệt thành của Pythagoras:
Những ngôi sao, những kẻ trở lại theo chu kỳ
Những nguyên tử định mệnh sẽ lập lại trong niềm khẩn cấp
Nữ thần tình yêu Aphrodite Vàng Ngọc [của ta] cư dân thành Thebes [Hy
                                                         Lạp, với] quảng trường agoras.

 

Một thời đại tương lai sẽ  nhìn thấy một đám đông người ngợm
Với đôi chân không móng bộ ngực của người
                                                Lapith [trong thung lũng Peneus]
Khi Rome trở thành cát bụi, con quái vật Minotaur sẽ gầm lên
Trong đêm vô tận của cung điện hoang dại của nó

 

Từng đêm mất ngủ trở lại: thứ phút giây
Đôi tay chữ viết này sẽ được tái sinh từ cùng một thứ
Bụng dạ, những đám đông sắt đá tạo nên những vực thẳm
David Hume  xứ  Edinburgh đã nói điều tương tự

Chúng ta sẽ trở lại trong một cuộc luân hồi khác
Như thứ ám hiệu trong một phân số tuần hoàn ?
Vòng quay Pythagore chưa hiểu hết vẫn còn đó
Từng đêm từng đêm rời bỏ ta ở một chốn nào đó trong thế giới

 

Nơi ngoại ô. Một góc hẻo lánh
Phía Bắc hay phía Nam hay đằng Tây
Nhưng ta [thì] luôn có một bức tường màu xanh như bầu trời
Một cây vả buồn rầu  và một vỉa hè đổ nát

Ở đó là Buenos Aires. Thời gian cho những kẻ
Mang theo tình yêu hay vàng, chắc chắn là không rời khỏi ta
Đóa hồng lặng lẽ này. Chùm huyết quản này
Của những con phố lập lại những cái tên của quá khứ

Là thuộc dòng máu của ta: Laprida, Cabrera, Soler, Suárez…
Những cái tên lừng lẫy (một cách bí mật) với sự đánh thức
Những nền cộng hòa, lũ ngựa và những buổi ban mai
Những chiến công vui vẻ, [và] cái chết của người lính

 

Những quảng trường trầm trọng thêm bỡi những đêm vô chủ
Là quảng sân to lớn của [thứ] cung điện vô vị
Và những con đường đồng lòng làm nên thứ không gian
Là hành lang của nỗi sợ mơ hồ và giấc ngủ

Đêm khuyết trở lại Anaxagoras đã đọc được
Những cuộc qui hồi vĩnh cửu đối với xương thịt ta
Và ký ức hay dự án của bài thơ bất tận
’’Họ biết những học trò nhiệt thành của Pythagoras’’

(*)nữ tiểu thuyết gia Argentina, sinh 1915 mất 1990

 

 

YOU ARE NOT THE OTHERS (English)

The writings left behind by those whom

Your fears implore won’t have to save you;

You are not the others and you see yourself

Now at the center of the labyrinth woven

By your own steps. The agonies of Jesus or

Socrates will not save you, nor will the

Strength of Golden Siddhartha who,

At the end of the day, accepted death

In the garden. The word written

By your hand or the verb spoken

By your lips, these too are dust. Fate has no pity,

And God’s night is infinite.

Your matter is time, ceaseless

Time. You are each solitary moment.

Jackson Hays

 

 

ADAM IS YOUR ASHES

 

The sword will die just like the ripening cluster (Enghlish)

The glass is no more fragile than the rock.

All things are their own prophecy of dust.

Iron is rust. The voice, already an echo.

Adam, the youthful father, is your ashes.

The final garden will also be the first.

The nightingale and Pindar both are voices.

The dawn is a reflection of the sunset.

The Mycenaean, his burial mask of gold.

The highest wall, the humiliated ruin.

Urquiza, he whom daggers left behind.

The face that looks upon itself in the mirror

Is not the face of yesterday. The night

Has spent it. Delicate time has molded us.

 

What joy to be the invulnerable water

That ran assuredly through the parable

Of Heraclitus, or the intricate fire,

But now, on this long day that doesn’t end,

I feel irrevocable and alone

Anonim

 

 

CYCLICAL NIGHT

To Sylvina Bullrich

They knew it, the ardent alumni of Pythagoras:

Stars and men cyclically return;

Fatal atoms urgent will repeat

Golden Aphrodite, Thebans, agoras.

 

A future age will see the centaur press

With solipedous hoof the Lapith’s breast;

When Rome is dust, the Minotaur will roar

In its fetid palace’s infinite night.

 

Each insomniac night returns: minutial.

The hand this writes will be reborn from the same

Belly, iron armies construct the abyss.

(Edinburgh’s David Hume said the same thing.)

 

Will we return in yet another cycle,

Like ciphers in a periodic fraction?

Obscure Pythagorean rotation still

Night by night leaves me somewhere in the world

 

On the outskirts. A remote corner

On the North or South or Westside,

But I always have a sky-blue wall,

A gloomy fig tree and a broken sidewalk.

 

There is Buenos Aires. Time, which unto men

Brings love or gold, scarcely leaves me

This quiet rose, this vein skein

Of streets repeating the preterit names

 

Of my blood: Laprida, Cabrera, Soler, Suárez…

Names reverberating (secretly) with reveilles,

Republics, horses and mornings,

Joyous victories, the military dead.

 

Squares aggravated by masterless nights

Are vasty courtyards of an arid palace

And the unanimous streets that engender space

Are corridors of vague fear and sleep.

 

The concave night returns Anaxagoras deciphered;

Eternity returns to my human flesh

And the memory or project of a ceaseless poem:

“They knew it, the ardent alumni of Pythagoras… ”

Christopher Mulrooney

 

BI CA [ABRAMOVICZ] 

Những gì của bạn bây giờ, Abramowicz*, là hương vị duy nhất của cái chết, [điều] không ai có thể tránh khỏi, điều sẽ xảy ra với ta nơi ngôi nhà này hoặc phía bên kia biển trên những bến bờ sông Rhone của bạn, dòng chảy chết chóc ấy như thể là phía khác và dòng sông Rhone già cỗi. Thời Gian. Những gì của bạn chắc chắn cũng sẽ là thứ thời gian lãng quên những ngày qua của nó, và rằng không có gì là không thể làm lại được hoặc ngược lại chắc chắn rằng ngày tháng không thể xóa đi, và rằng không có hành động nào hay ước mơ nào không tạo ra cái bóng râm vô tận. Geneve tin tưởng bạn con người của luật pháp và những lời quả quyết và những lý do, nhưng trong mọi lời nói, trong mọi sự im lặng, bạn là một nhà thơ.

Có lẽ trong lúc này đây bạn đang mở những cuốn sách linh tinh những cuốn sách bạn không viết nhưng là những cuốn sách bạn định viết và xóa bỏ, và những cuốn sách với chúng ta chứng minh bạn là đúng, và trong một ý nghĩa vậy. Trong suốt cuộc chiến đầu tiên, khi con người sát hại nhau, chúng ta đã mơ tới hai giấc mơ có tên Laforgue và Baudelaire. Chúng ta nhận ra các sự việc hết thảy những người tuổi trẻ [cũng] nhận ra:  tình yêu khờ khạo, sự trớ trêu, ước muốn trở thành Raskolnikov hoặc Hoàng Tử Hamlet, những lời nói và cảnh hoàng hôn. Các thế hệ Israel là cdo1 ở trong bạn khi bạn mỉm cười nói với tôi:  Tôi vô cùng mệt mỏi. Tôi đã bốn nghìn năm tuổi. Điều này đã diễn ra nơi mặt đất, là vô ích để phỏng đoán số tuổi bạn được ghi nơi thượng giới.

Ta không biết nếu bạn vẫn còn là ai đó, ta không biết nếu bạn [vẫn] lắng nghe ta.

Buenos Aires,  14 tháng giêng 1984

 

____

Abramowicz(*), luật sư, nhà văn và là nhà thơ gốc Ba Lan-Do Thái. Borges gặp ông ở Geneve năm 1914 khi ông đang theo học ở Collège Calvin. Nhỏ hơn Borges hai tuổi, ông là người gợi ý  Borges về các tác phẩm của Rimbaud và duy trì thư từ với Borges về các chủ đề văn chương. Trong truyện ngắn “Three Versions of Judas” (Ficciones, 1944), Borges đề tặng bạn mình một lời bình ngụy tạo về nhân vật nhà văn hư cấu Nils Runeberg. Trong tác phẩm Los conjurados, cuốn sách cuối cùng của Borges, ông đã dành một trang [trang này] cho bạn mình với cái tựa đề Abramowicz

Smith, Frank Thomas

 

 

 

Bản dịch tiếng Anh của Frank Thomas Smith [Mỹ, 1928-2005]

Elegy (Abramowicz)

Yours is now, Abramowicz*, the singular taste of death, denied to none, which will be offered to me in this house or on the other side of the sea, on the banks of your Rhone, which fatally flows as though it were that other and older Rhone, Time. Yours will also be the certainty that Time forgets its yesterdays and that nothing is irreparable or the contrary certainty that the days can erase nothing and that there is no act or dream that doesn’t project an infinite shadow. Geneva believed you a man of laws and dictums and causes, but in every word, in every silence, you were a poet.

Perhaps at this moment you are leafing through the diverse books which you didn’t write but which you intended and discarded and which for us justify you, and in a sense are. During the first war, when men were killing each other, we dreamed the two dreams called Laforgue and Baudelaire. We discovered the things all youths discover: ignorant love, irony, the wish to be Raskolnikov or Prince Hamlet, the words and the sunsets. The generations of Israel were in you when you smilingly told me: Je suis très fatigué. J’ai quatre mille ans. This happened on earth; it is futile to conjecture the age you will have in heaven.

I don’t know if you are still someone, I don’t know if you are listening to me. 

Buenos Aires, January 14, 1984

  

*Maurice Abramowicz, lawyer, writer and poet of Polish-Jewish origin. Borges met him in Geneva in 1914 when he was studying in the Collège Calvin. Two years younger than Borges, he initiated him in the works of Rimbaud and maintained a correspondence with him about literary themes. In “Three Versions of Judas” (Ficciones, 1944), Borges attributes to his friend an apocryphal commentary about Nils Runeberg. In Los conjurados, his last book, he dedicates a page [this one] titled “Abromowicz”.

Smith, Frank Thomas

 

 

Nguyên tác tiếng Tây Ban Nha

Elegía (Abramowicz)

Tuyo es ahora, Abramowicz*, el singular sabor de la muerte, a nadie negado, que me será ofrecido en esta casa o del otro lado del mar, a orillas de tu Ródano, que fluye fatalmente como si fuera ese otro y más antiguo Ródano, el Tiempo. Tuya será también la certidumbre de que el Tiempo se olvida de sus ayeres y de que nada es irreparable o la contraria certidumbre de que los días nada pueden borrar y de que no hay un acto, o un sueño, que no proyecte una sombra infinita. Ginebra te creía un hombre de leyes, un hombre de dictámenes y de causas, pero en cada palabra, en cada silencio, eras un poeta.

Acaso estás hojeando en este momento los muy diversos libros que no escribiste pero que prefijabas y descartabas y que para nosotros te justifican y de algún modo son. Durante la primera guerra, mientras se mataban los hombres, soñamos los dos sueños que se llamaron Laforgue y Baudelaire. Descubrimos las cosas que descubren todos los jóvenes: el ignorante amor, la ironía, el anhelo de ser Raskolnikov o el principe Hamlet, las palabras y los ponientes. Las generaciones de Israel estaban en ti cuando me dijiste sonriendo: Je suis tres fatigué. j’ai quatre mille ans. Esto ocurrió en la Tierra; vano es conjeturar la edad que tendrás en el cielo.

No sé si todavía eres alguien, no sé si estás oyéndome.

 

*Maurice Abramowicz – Abogado, escritor y poeta de origen judío-polaco. Borges lo conoció en Ginebra en 1914, mientras estudiaba en el Collège Calvin. Dos años menor que Borges, lo inició en la lectura de Rimbaud y mantuvo correspondencia con él sobre temas literarios. En Tres versiones de Judas (Ficciones, 1944), Borges atribuye a su amigo un comentario apócrifo sobre Nils Runeberg. En Los conjurados, su último libro, le dedica una página titulada Abramowicz.

 

 

Nguồn : https://www.babelmatrix.org/works/es/Borges%2C_Jorge_Luis-1899/Eleg%C3%ADa_%28Abramowicz%29