một cách nói khác của niềm khao khát

 

 

 

 

 VIỆC TÌM KIẾM CON NƯỚC ĐẦU NGUỒN CON
     SÔNG QUÊ NÀNG LÀ VIỆC
   LỚN NHẤT CỦA   ĐỜI TÔI.
   CÓ LẦN TÔI ĐÃ NÓI VỚI SÔNG
   RẰNG MÌNH MUỐN ĐƯỢC TẬN MẮT NHÌN
   THẤY NƠI   TỪ ĐÓ
   TUÔN TRÀO RA   THỨ NGUỒN MẠCH NGỌT
   NGÀO   ĐÃ HUN ĐÚC NÊN HÌNH HÀI THỊT XƯƠNG
   NÀNG.
   TÔI BIẾT,   KHÔNG CÓ NƠI CHỐN ẤY
   THÌ KHÔNG CÓ NGƯỜI TÔI YÊU.
     CON SÔNG QUÊ NÀNG LÚC NƯỚC TRÀN BỜ,
     KHI LẠI KHÔ CẠN ĐẾN MỨC CÓ THỂ NÓI KHÔNG
     PHẢI LÀ SÔNG.
     VÀO MÙA LŨ, CON NƯỚC LUÔN
   NGẦU ĐỤC TỰA CÓ BÀN TAY AI
   CHỌC KHUẤY DÒNG SÔNG.
   NHƯNG SANG HÈ,
   CON NƯỚC THU LẠI THÀNH MỘT DẢI
   TRONG SUỐT SOI THẤY MẶT NGƯỜI.
   SÔNG   LUÔN BIẾN ĐỔI VẬY, NÊN
   VIỆC TÌM KIẾM CON NƯỚC ĐẦU NGUỒN
   LÀ VÔ CÙNG KHÓ.
     CÓ LÚC LÀ MỘT MÌNH TÔI,
     CÓ KHI LÀ CÙNG
     NÀNG, CUỘC TÌM KIẾM LÀ NHỮNG CHUYẾN
     ĐI VỀ TRONG THỨ KHÔNG GIAN VÀ   THỜI GIAN
     CỦA RIÊNG TÔI VỚI NÀNG.                                                                                                                                                                                                                     

một .
hóa ra người coi rừng là một vị thần

 

Người coi rừng bảo tôi với nàng gặp may. Các người gặp được ta là may lắm đấy. Ông ta nói. Bấy giờ ánh hoàng hôn trong rừng vẫn còn soi rõ mặt người. Lạ thay, tôi định gọi ông ta bằng anh để tỏ thân ái một chút, thì thấy đó là một chàng trai trẻ, trẻ hơn tôi rất nhiều, nhưng khi nghĩ phải gọi bằng ông cho phải phép khi lần đầu gặp một người lạ, thì lại thấy đó là một ông lão. Lúc ấy tôi cứ nghĩ sau một ngày leo dốc lội suối, lại lo bị lạc trong rừng, mệt quá thành quáng mắt. Nhưng thôi, việc này về sau thì rõ cả. Còn bây giờ là nói về cuộc gặp gỡ kỳ thú ấy.

 

Ngày hôm ấy, tôi và nàng ngược về phía thượng nguồn một con suối, phụ lưu   của sông. Con sông quê nàng là có rất nhiều phụ lưu (rồi phụ lưu lại có rất nhiều chi lưu) Và hôm ấy là chúng tôi đi theo một phụ lưu nằm về phía tây bắc của sông. Đang mùa hạ, con suối đã cạn hết nước. Tôi và nàng cứ theo lòng suối mà đi. Quả tình con người ta cảm thấy hạnh phúc khi có một tương lai tốt đẹp đang chờ ở phía trước. Trong chuyến đi này nàng cũng tỏ ra rất vui như các chuyến đi trước đó. Tả cho em nghe về con nước đầu nguồn đi anh. Nàng lại lập lại câu nói nàng vẫn nói với tôi trong mỗi chuyến đi. Và tôi, thì lại nói với nàng rằng, nó, con nước đầu nguồn ấy, cũng giống như nước trên dòng sông chảy qua quê em, có điều là chưa vẩn đục như nước lúc chảy qua quê em. Tôi nói theo cách nói của một nhà triết học tự nhiên thời cổ đại, tức có tính cách tư biện, có thể đúng mà có thể không. Bỡi tôi cũng như nàng, đã bao giờ nhìn thấy con nước đầu nguồn của dòng sông ấy đâu. Cứ nghĩ đến thứ tương lai vui vẻ là được nhìn thấy con nước đầu nguồn, chúng tôi quên mất là mình đã vượt qua một chặng đường rừng rất dài. Cho đến lúc nhìn thấy cái gộp đá nằm chắn ngang con suối, có nghĩa dòng suối chấm dứt ở đó, thì trời sắp tối. Như thế là chúng tôi không còn thời gian để quay lại. Không thể đi trong đêm tối ở một nơi núi rừng ta chỉ mới đến lần đầu. Trong lúc cả tôi lẫn nàng chưa biết phải làm sao, là cứ làm ra vẻ bình tĩnh vì tình yêu của chúng tôi sẽ chiến thắng mọi trở lực, hay là cứ nói ra những lo lắng trong lòng là làm sao để chống lại cái đói, chống lại thú dữ nếu đêm đến chúng mò đến chỗ chúng tôi, trong lúc cả tôi lẫn nàng chưa biết phải tỏ ra thề nào cho hợp lý, thì người coi rừng xuất hiện. Đừng sợ. Vừa nghe mấy tiếng đừng sợ thì đã thấy ông ấy nơi bờ suối. Có một người xuất hiện vào lúc đêm sắp ập xuống, lại bảo chúng tôi đừng lo sợ, thì nhất định là người ở vùng núi rừng này. Ý nghĩ này đã gíup tôi giữ được điềm tĩnh. Cuối cùng thì tôi quyết định gọi ông ta bằng ông. Thưa ông, từ đây đi tới nơi có làng xóm có người ở có xa lắm không? Ông không trả lời, mà hỏi lại tôi, rằng đi tìm làng xóm sao lại vào trong rừng núi mà tìm? Tôi liền khai thật là mình với người yêu đi tìm con nước đầu nguồn của một con sông, giờ thì trời tối chẳng biết sẽ ở đâu. Mặt đất này thì rộng lớn, và con sông nào cũng có chỗ bắt đầu của nó, mà các người đi tìm nguồn con sông nào? Ông hỏi. Tôi nói là con sông chảy qua quê nàng. Con sông quê của người mình yêu. Ông quảng diễn thêm câu nói của tôi. Rồi bảo hai chúng tôi có vẻ khăng khít nhau thế còn đi tìm nguồn con sông đó chi nữa. Tôi nói đó là bí mật của tình yêu. Hóa ra không phải chỉ tôi với nàng mới có bí mật của tình yêu. Đêm đó, nơi căn nhà lá ở gĩưa rừng, người coi rừng đã nói cho chúng tôi biết ông cũng có một bí mật của tình yêu.

 

Tám tuổi ta đã biết cầm cây rìu để đốn gỗ. Dòng họ nhà ta sống bằng nghề đẽo gỗ rừng. Đã bao nhiêu đời như thế, thì ta không rõ. Chỉ thấy những lưỡi rìu cùn, những lưỡi rìu bị thải ra khi không còn chặt cây rừng được nữa, chất thành đống ở một góc vườn nhà. Ta biết ông cố ta, rồi ông nội ta, rồi cha ta, nói chung là các tổ tiên ta chẳng ai muốn cầm mãi cây rìu để làm cái công việc luôn là quá sức của một con người, nhưng chén cơm kiếm được thì luôn là quá ít đối với một con người phải ăn cơm để sống. Ta cầm cây rìu từ tám tuổi cho đến năm ba mươi tuổi. Cũng giống như cha ta, như ông nội ta, ba mươi tuổi vẫn chưa lấy vợ, không phải vì không còn đàn bà phụ nữ, mà vì chưa chắc cầm cây rìu đốn gỗ nuôi nổi vợ con. Ta luôn nuôi ý đồ phá bỏ bản phân bổ của trần gian, bản phân bổ trong đó ghi dòng họ nhà ta làm nghề đẽo gỗ rừng, nhưng không cách nào phá bỏ nổi. Đôi khi cũng có nghe nói đến một cuộc làm lại cách phân bổ ở trần gian, để cho những kẻ như ta có cuộc sống mới mẻ hơn. Nhưng ta biết đó chỉ là những giấc mộng không thành của con người. Và cái quá khứ của dòng họ nhà ta vẫn tiếp tục rỉ sét ở nơi góc vườn nhà. Cho đến một hôm, ta gọi là ngày của một đời người, ta đã ra nơi góc vườn nhà để từ biệt dấu vết các bậc tổ tiên. Tất cả bọn ta là mười hai đứa, cùng lứa, cùng có cuộc sống đang rỉ sét, cắt máu ăn thề, và trốn nhà ra đi. Bọn ta vào rừng. Không phải để đốn gỗ. Cũng không phải để làm giặc cướp. Sau đây là   tóm tắt thứ kiến thức về trầm hương bọn ta có được, không phải kiến thức trong sách vở, mà là nghe được từ cửa miệng của thiên hạ. Có một loài cây rừng là cây gió, khi bị thương tích thì phần lõi của cây hóa thành trầm hương, thơm, và quí hơn vàng. Có nghĩa là bọn ta đi tìm vàng để làm cho cuộc sống mới mẻ hơn. Kết quả là đã hạ được một cây rừng mà bọn ta cho là cây gió, vì một phần cành nhánh của cây đã bị gãy đổ, và có hương thơm phát ra từ chỗ thân cây bị thương tích. Sau khi đã có được thứ lõi cây quí hơn vàng thì bọn ta chẳng đứa nào còn nhớ đến những lời thề. Một cuộc chiến có tính cách cục bộ đã xảy ra trên rừng. Có nghĩa là chỉ xảy ra trong mười hai đứa bọn ta mà thôi. Bọn ta đánh nhau từ giữa trưa cho đến khi trời tối mịt. Kết cuộc chỉ có ta là còn hơi nguyên vẹn, tức còn thở được và biết được những sự vật chung quanh. Còn mười một đứa kia, và cái lõi gỗ quí hơn vàng, thì tan nát hết. Thử hỏi sức của bọn ta mà dùng rìu đốn gỗ để bổ vào nhau thì đá cũng tan nát huống hồ thịt da. Niềm hận thù cuộc sống rỉ sét vẫn tích tụ mỗi ngày trong mỗi đứa bọn ta chẳng biết cách nào trút bỏ, hình như đến lúc đó thì cố trút lên đầu của nhau. Ta nằm trên máu và thịt xương của lũ bạn ta, nằm trên những mảnh vụn của thứ gỗ rừng được coi là quí hơn vàng, cảm thấy có chút hả hê của kẻ chiến thắng. Rồi bắt đầu hành động như một kẻ chiến thắng. Ta bò trên bãi chiến trường đầy máu và da thịt người, cố gom lại những mảnh vụn của thứ gỗ thơm. Ta gom chúng lại, và đem trả trở lại nơi chúng đã từng tồn tại. Sau đó thì ta thiếp đi trong niềm hạnh phúc hiếm thấy. Vào khoảng nửa khuya thì người con gái đó đã đến ngủ với ta. Nàng vui như cây rừng mùa xuân. Tóc tai nàng, da thịt nàng, nói chung là thân thể nàng hình như chỗ nào cũng tỏa hương thơm. Kể từ đêm nay em là của chàng, bỡi đã có chàng gìn giữ chốn này, chàng mãi mãi là vị thần cai quản núi rừng này. Sau cuộc ái ân, nàng nói với ta vậy đấy. Rồi bước vào sự vắng lặng của rừng đêm. Kể từ hôm đó thì chẳng còn kẻ nào nói là đi tìm trầm hương mà dám bén mảng đến vùng núi rừng này. Khi nhà nước xếp vùng núi rừng này vào loại núi rừng đầu nguồn, thì ta nghiễm nhiên tự coi mình là kẻ coi rừng ở nơi đây.     

 

hai.
lửa. 

Theo lời người coi rừng thì chắc chắn mạch nước đầu nguồn của con suối là nằm ở bên dưới mặt đất của rừng núi ấy ( nhà nước đã xếp vùng núi rừng này vào loại núi rừng đầu nguồn là lời ông ta) Không được tận mắt nhìn thấy con nước đầu nguồn thì cứ bước đi trên đất mạch đầu nguồn cũng là vui lắm rồi. Tôi và nàng đã đồng ý với nhau như thế.

Lúc chúng tôi ra đi thì vẫn chẳng thấy bóng dáng người coi rừng đâu cả. Có nghĩa ông đã rời căn nhà ấy tự lúc chúng tôi còn ngủ say. Cũng chẳng sao. Nếu quả là vị thần của rừng núi này thì tất ông hiểu được lòng biết ơn của chúng tôi về việc được   trú qua đêm. Tôi thì nghĩ vậy. Còn nàng, có lẽ vẫn chưa hết niềm kinh dị, nên chẳng dám có lời gì về con người ấy. Mãi gần trưa, lúc ngang qua một đám hoa rừng nở mùa hạ, rực rỡ và ngát hương, nàng mới nói như thể để trút bỏ sự đè nén trong suy nghĩ. Hóa ra người con gái ấy là một thứ hương thơm. Nàng nói về bí mật tình yêu của người coi rừng. Còn tôi thì nói về lửa. Lúc ấy tôi nói về lửa là để dẫn đến câu chuyện tình của người coi rừng. Nàng cúi xuống ngửi một bông hoa rừng, rồi nhìn tôi với ánh mắt, mà tôi đã nằm lòng, là muốn tiếp tục nghe tôi nói. Tôi nói từ khi con người tìm ra lửa thì mặt đất này bớt lạnh lẽo, và những con vật khác thì có vẻ ganh tỵ với con người. Nàng hỏi làm sao tôi biết được. Tôi nói không phải là chỉ nhìn thấy lửa trong trời đất không thôi, một hôm con người chợt nhận ra có cái gì đó đang ẩn náu trong chính anh ta, có vẻ cũng giống lửa trong trời đất, và chính là lúc con người hô hoán rằng ở trong anh ta cũng có lửa, tức lúc anh ta nhận biết về chính mình, thì các nhà chép sử bảo là con người bắt đầu có văn minh. Tôi nói là thật lâu về sau chuyện con người biết tư duy, có thể là mấy ngàn năm, hay mấy triệu năm, các nhà chép sử mới nói được như thế, cho nên cũng không hẳn là đã nói đúng. Có điều, ai cũng thấy, thứ lửa ấy, còn gọi là nhiệt huyết, đã giúp cho con người có lúc làm nên hạnh phúc, huy hoàng, có khi lại gây ra đau khổ hay điêu tàn. Tôi nói tới chỗ này thì thấy nàng rơm rớm nước mắt. Là con người, nàng xúc động về chuyện con người, là phải thôi. Tôi nói, với thứ lửa tự sinh, con người có thể nghĩ được mọi chuyện, làm được mọi chuyện, ngay cả việc anh ta có thể khiến một thoáng hương thơm trở thành người con gái anh ta yêu, mà biết đâu chừng em cũng được kết thành từ một thứ hương thơm. Tôi nói như để khẳng định với nàng rằng tôi yêu nàng xiết bao. Và thấy mắt nàng long lanh. Tối hôm đó chúng tôi trú lại ở một xóm nhà tranh vách lá nằm giữa rừng già, khu cư ngụ tạm bợ của những người di dân tự do đến từ phía bắc đất nước. Lúc đến nơi thì đã chập choạng tối, chẳng còn trông rõ mặt người.Việc chúng tôi xin vào nghỉ ở căn trại của đôi vợ chồng trẻ tuổi ấy chỉ là ngẫu nhiên. Họ còn quá trẻ, trẻ hơn chúng tôi rất nhiều, và có lẽ là mới vừa lấy nhau. Nhà chúng em chỉ có thế. Anh chồng nói, sau khi chúng tôi ăn cơm tối xong. Chỉ có thế có nghĩa là chỉ có một cái giường nằm làm bằng cây rừng. Tất nhiên là trước đó, lúc mới bước vào nhà, tôi đã tóm tắt cái lý do tại sao vào lúc đó chúng tôi lại có mặt ở đó. Đi tìm con nước đầu nguồn của một dòng sông. Tôi nói. Mà đi tìm chi vậy anh? Lúc đó chị vợ hỏi thế. Và tôi bảo đó là bí mật của tình yêu. Nói xong câu này thì tôi có ý chờ đợi sự hưởng ứng của đôi vợ chồng trẻ tuổi. Biết đâu là họ cũng có một bí mật của tình yêu. Nhưng không. Họ chỉ chia xẻ với chúng tôi những thứ thuộc về vật chất, như bữa cơm tối có rau rừng chấm với muối, như đề nghị nhường chiếc giường duy nhất cho chúng tôi nằm, còn thứ vật thể gọi là tình yêu thì họ chẳng có lời nào. Nàng với chị vợ trải chiếu nằm trên giường, còn tôi với anh chồng trải lá nằm dưới đất, coi như là giải pháp cuối cùng, sau những mời gọi và từ chối, một giải pháp dung nạp được cả lòng hiếu khách lẫn sự biết ơn của khách. Qua cuộc chuyện trò trong đêm, tôi biết cuộc tìm kiếm của những người đang có mặt ở cái xóm nhà tranh vách lá ấy cũng lớn lao như cuộc tìm kiếm của chúng tôi. Tôi với nàng đi tìm con nước đầu nguồn dòng sông ấy là một thể nghiệm về tình yêu. Còn bọn họ từ phía bắc đất nước chuyển đến rừng núi ấy tìm đất trồng cây cà phê là một thể nghiệm về cơm áo. Đấy là tôi nghĩ vậy. Còn với bọn họ, lúc lửa đốt rừng lan tới xóm nhà tranh vách lá đó, thì cuộc thể nghiệm của chúng tôi đã trở thành thứ tai họa. Vào khoảng nửa đêm, khi nghe tiếng ngáy đều đặn của đôi vợ chồng tuổi trẻ, tôi bắt đầu cảm thấy mình là kẻ cô độc. Biết nàng vẫn còn thức, nhưng làm sao tôi lại dám gầy cuộc chuyện trò giữa lúc đôi vợ chồng tuổi trẻ đang tìm được những phút bình yên như thế. Trong phút giây cảm thấy cô độc, tôi lại giật mình về thứ công việc mình đang đeo đuổi. Biết đâu thứ khái niệm gọi là tình yêu là có vẻ xa xí đối với những con người đang làm cuộc thể nghiệm về cơm áo? Nói cho nghiêm túc thì cuộc thể nghiệm của bọn họ cũng ít có tính thực chứng như cuộc thể nghiệm của chúng tôi. Có nghĩa cũng lãng mạn như chúng tôi. Hạ cây rừng xuống, đốt đi, và trồng lại cây cà phê, là một thứ lãng mạn kép. Cây gỗ rừng không mang đi bán, mà đốt đi, tất nhiên là lãng mạn rồi ( mà phải làm vậy thôi, vì nói cho nghiêm túc, đây là công cuộc trộm rừng) Còn như nghe nói nhiều người giàu có nhờ cây cà phê, nên đã bỏ quê, đi nửa nước tìm đất trồng cà phê, trong khi nhà chưa đủ gạo nấu, thì còn lãng mạn hơn. Nhưng sự lãng mạn này lại là sinh ra từ một cuộc ra đi có tính dong rủi, như cuộc ra đi của người tiền sử, cuộc ra đi từ cái nôi sinh ra mình.

Vào khoảng quá nửa đêm thì chúng tôi trải qua một đêm tiền sử giữa thời hiện đại. Đêm tối và rừng già làm cho ngọn lửa cháy rừng thêm vẻ huyền bí. Giữa thứ không gian và thời gian thâm u ấy bỗng bùng lên cái màu sáng ấy. Thì chẳng phải cảnh chúng tôi chạy trong ánh lửa rừng bập bùng là nhại theo cảnh những người tiền sử được phác vẽ theo trí tưởng tượng của các nhà khoa học? Tôi cõng nàng mà chạy. Vì không làm thế, có thể nàng đã gục ngã trong lửa. Vừa cõng nàng chạy, vừa luận về lửa. Thấy chúng tôi làm thế, đôi vợ chồng tuổi trẻ cũng làm thế. Đến lúc đó tôi mới tin là họ cũng có một bí mật của tình yêu. Ở phía bên kia một dòng suối lớn đã cạn nước là nơi chúng tôi dừng cuộc trốn chạy. Chẳng còn trông thấy lửa nữa, mà chỉ thấy một vòm sáng phủ bên trên rừng cây. Dường như đầu óc mọi người đều dành cả cho việc nghĩ ngợi về số phận những căn nhà tạm bợ của mình, nên chẳng ai để ý đến ai, chẳng có nửa lời chuyện trò. Điều này cũng có nghĩa là chẳng ai biết trong đám người chạy lửa ấy, có kẻ lạ là tôi với nàng. Mãi đến sáng hôm sau, khi nhìn thấy xóm nhà tranh vách lá chỉ còn là một đám tro tàn, mọi người đều nghe trong lòng có niềm thống khổ chẳng bút mực nào tả nổi, thì tôi nghe có ai đó đã hỏi về chúng tôi. Họ là ai vậy? Tôi nghe có ai hỏi như vậy. Thì đám người đến từ phía bắc đất nước vốn xa lạ nhau ấy cũng mới vừa kết nhau thành cái quần cư nho nhỏ giữa rừng núi mênh mông, và cũng mới vừa hạ được mảng rừng đầu tiên bị cháy trong đêm ấy. Mảng rừng vừa được hạ xuống ấy tất nhiên sẽ được đốt đi để lấy đất trồng cây cà phê, nhưng không phải là đốt vào ban đêm như vậy. Xóm nhà tranh vách lá nằm ở bờ biên mảng rừng vừa bị hạ, nên bị lửa thiêu rụi là phải thôi. Nhưng những con người thống khổ ấy không dừng lại ở cái nguyên nhân gây cảnh bể dâu là lửa. Anh chị hãy rời khỏi nơi đây, bỡi bà con ở đây cho rằng việc hai anh chị tự dưng dẫn nhau vào ngủ trong làng là nguyên do của tai họa này. Đôi vợ chồng tuổi trẻ ấy đã kéo chúng tôi ra ngoài xa, rỉ tai, và hối chúng tôi hãy ra đi trước khi có điều không lành xảy ra. Lúc đêm, nàng bước không nổi vì sợ lửa cháy rừng. Còn lúc ấy, nàng bước không nổi là vì sợ lửa giận ở lòng người. Tôi lại cõng nàng nữa. Cõng nàng mà chạy.

 

ba.
lưới người. 

Khi nghe mấy người đó xưng là nhân viên kiểm lâm, tôi với nàng mừng vô kể. Coi như là thoát được hiểm họa từ phía những người di dân tự do. Phải nói trong lúc cõng nàng chạy, tôi không tin là chúng tôi sẽ còn sống sót để tiếp tục cuộc tìm kiếm con nước đầu nguồn dòng sông ấy. Vì đám người đang giận dữ ấy mà đuổi kịp, chỉ cần mỗi người đấm cho một cái, thì thứ nam nhi như tôi và thứ nữ nhi như nàng tất phải bỏ mạng thôi. Chính là việc xuất hiện của ba vị nhân viên kiểm lâm đã giúp chúng tôi phục hồi lại tinh thần. Hai anh chị là ai? Câu hỏi đầu tiên của các vị kiểm lâm. Trong ngôn ngữ hằng ngày thì hỏi như thế là bình thường. Nhưng đối với tôi và nàng lúc ấy thì chẳng bình thường chút nào. Ba vị đó phát hiện ra chúng tôi là lúc tôi đang cắm đầu cắm cổ chạy, còn nàng thì đang đeo trên lưng tôi. Thôi, cứ nói thật là tốt nhất. Khi nghe nói là đi tìm con nước đầu nguồn của một dòng sông, các vị ấy cười ngắc nga ngắc nghẻo. Nghĩ kỹ, quả cũng tức cười. Đi tìm con nước đầu nguồn chi lại cõng nhau mà chạy. Sự việc trở nên nghiêm trọng là do các vị ấy bắt gặp chúng tôi sau khi đã phát hiện ra mấy hắc ta rừng vừa bị cháy trong đêm. Tức dù muốn hay không, cứ chiếu theo tình hình đang xảy ra là tôi đang cõng nàng chạy, các vị phải nghĩ đến một sự liên quan nào đó giữa chúng tôi và việc cháy rừng. Những câu hỏi tiếp theo mà theo chúng tôi là các vị muốn khám phá sự liên quan ấy. Có thể cho rằng tôi nói đùa hoặc nói không thật, nên các vị đã chẳng đá động chi đến chuyện con nước đầu nguồn với dòng sông của chúng tôi. Nhưng các vị ấy lại chẳng phải là những người làm công việc tư pháp, nên các câu hỏi tiếp theo cứ loanh quanh ở trong rừng. Hai anh chị có biết rừng đầu nguồn là gì không? Tại sao phải đừng để cháy rừng?   Đốt rừng trái phép thì bị tội chi? Tôi trả lời được hết. Và khi trả lời xong các câu hỏi đó thì ai cũng thấy là chúng tôi chẳng liên quan chi tới việc cháy rừng. Vì vậy mà các vị lại tiếp tục hỏi nữa. Trong các câu hỏi tiếp sau đó có một câu đã làm cho tôi vô cùng bối rối. Tại sao anh chị lại chạy? Theo cách nghĩ có tính chất huyền bí của đám di dân tự do thì chính tôi với nàng là nguyên nhân của ngọn lửa cháy rừng đêm đó. Nếu khai thật chạy vì sợ đám người đó, là mặc nhiên thừa nhận chúng tôi đã gây ra lửa. Trong lúc tôi còn suy tính, chưa biết phải trả lời sao, thì nàng đã lên tiếng cầu cứu. Xin quí anh hãy cứu chúng tôi. Nàng nói, giọng khẩn thiết. Có lẽ tưởng nàng đang rơi vào tình trạng sức khỏe không ổn sao đó, nên các vị kiểm lâm có vẻ bối rối. Ở đây đâu có thuốc men chi, hay là anh đưa chị ra ngoài đường lộ, từ đây ra đó mất chừng bốn năm tiếng đồng hồ. Một trong ba vị bảo thế. Còn hai vị kia thì nhìn nàng một chặp, rồi kêu là như đã gặp ở đâu đó. Bấy giờ là nàng đã xuống khỏi lưng tôi, cả hai chúng tôi đều khoanh tay ngồi bệch trên đất. Quả tình ở đấy chỉ có thể   xin gạo để nấu cơm ăn, còn như muốn trú lại đêm thì cũng chỉ nằm khoanh dưới đất. Nói tóm lại nơi đây chẳng có chi cả, trừ muối với gạo, vì đây chỉ là một căn lán tạm nằm giữa rừng già dành cho các nhân viên tuần tra nghỉ tạm. Như vậy là tôi phải khai ra việc tôi và nàng đã ngủ lại đêm ở   khu nhà tranh vách lá đó. Khai hết mọi thứ. Và yêu cầu các vị ấy can thiệp, nếu như đám người ấy đuổi theo để hành hung chúng tôi. Nhưng các vị chưa kịp có lời chi về câu chuyện có nhiều tầng lớp này thì hai nhân viên kiểm lâm khác dẫn về lán một đôi nam nữ nữa. Trời đất ơi, lại là đôi vợ chồng tuổi trẻ ấy. Hai người này khai là có chặt phá cây rừng, còn lửa cháy rừng thì không biết do đâu. Hai vị mới đến nói với ba vị kia. Có phải khi ở giữa chốn rừng sâu, thiên nhiên luôn có vẻ muốn đè bẹp con người, thì con người có xu hướng xích lại gần nhau? Khi thấy chúng tôi và đôi vợ chồng tuổi trẻ mừng rỡ hỏi   nhau, các vị kiểm lâm không tra hỏi tại sao bọn tôi lại quen nhau, mà tỏ ra như đang chia xẻ niềm vui ấy, dù lúc ấy bọn tôi là những kẻ đang bị nghi vấn có liên quan đến việc cháy rừng. Cũng muốn để cho các anh chị đi, nhưng thế thì bọn tôi không có nhân chứng. Một vị trong các vị kiểm lâm nói. Để rừng cháy là góp phần làm cạn kiệt nguồn nước của trái đất chúng ta, nên chính phủ có thể bỏ tù đám kiểm lâm bọn tôi. Một vị khác nói. Quả thực, tôi rất cảm động, nhưng không phải là sẽ xin đi ngồi tù thay cho các vị, nếu các vị bị kêu vô tù, mà là do nhận ra rằng, cả các vị ấy, cả đôi vợ chồng tuổi trẻ, cả tôi với nàng, e khó tránh khỏi cái lưới người lồng lộng, lưới người chứ không phải lưới trời, đang giăng bắt chúng tôi.

 

bốn.
ở hạt kiểm lâm.

Nói bọn tôi (đôi vợ chồng tuổi trẻ, tôi và nàng ) bị áp giải về hạt kiểm lâm là cũng không phải. Có một vị trong các vị kiểm lâm dẫn bọn tôi đi thật. Nhưng trên   đường đi, anh ta than thở rằng không biết trong vụ cháy rừng này, trên hạt kiểm lâm sẽ xử trí bọn anh ta như thế nào. Có nghĩa là anh ta cũng lo lắng như bọn tôi. Vậy thì phải thừa nhận rằng, không phải chỉ bọn tôi, mà cả anh ta, đều đang là những đối tượng của luật pháp. Có nghĩa, trên con đường đến hạt kiểm lâm, về mặt làm dân một nước, anh ta và bọn tôi có giá trị ngang bằng nhau. Nhưng nói không bị áp giải cũng không phải. Không bị áp giải thì bọn tôi muốn đi đâu thì đi, mắc chi phải đi đến hạt kiểm lâm.

Khi còn ở cái lán giữa rừng nghe nói hạt kiểm lâm tôi cứ mường tượng một nơi chốn công đường to lớn, và những con người ở đó chỉ nghe anh nói là anh đi đâu trong rừng, hay đi làm gì trong rừng, chỉ nghe sơ qua thế thôi, thì những con người đó sẽ lập tức nói cho anh biết là anh có phạm luật rừng hay không. Hạt kiểm lâm nằm ở cuối mảng rừng núi ấy, cách đường lộ chỉ chừng vài ba trăm thước. Đứng tại nơi đây thì cùng lúc nghe tiếng chim bồ chao làm ồn ở trên núi và tiếng còi xe ở ngoài đường lộ. Có nghĩa là cùng lúc ta có thể cảm nhận được cả cái hoang dã của trời đất lẫn cái văn minh của con người. Tôi và nàng đương để cho hồn mình nương theo thứ hòa điệu không phải lúc nào cũng cảm nhận được ấy thì một đám người từ trong rừng thất thểu bước ra. Là bà con ở xóm trại bị cháy đấy. Đôi vợ chồng tuổi trẻ kêu lên cho tôi với nàng nghe, rồi chạy đến nhập vào bọn họ. Em đừng sợ, bỡi ở đây đã có kẻ nắm giữ công lý. Tôi nói, khi thấy nàng có vẻ lo lắng. Mà thực ra, nếu bấy giờ những con người ấy không có vẻ mệt nhọc như vậy, thì bọn họ cũng không thể hành hung chúng tôi, bỡi những suy nghĩ có tính cách huyền bí kia chỉ nảy ra trong lúc lửa bỏng dầu sôi mà thôi. Bọn họ cũng giống như tôi với nàng và đôi vợ chồng tuổi trẻ. Là nói bị áp giải cũng không đúng, mà nói không bị áp giải cũng không đúng. Các tóan kiểm lâm đã bắt gặp bọn họ rải rác ở trong rừng. Định trộm vài hắc ta rừng để trồng cây cà phê, nhưng   khi cháy thì đã cháy lan đến năm bảy hắc ta. Biết mình là kẻ phá hoại rừng nên phải đi trốn pháp luật. Rồi không có cơm ăn, nằm đói lã trong rừng. Phải nói là nếu các vị kiểm lâm không phát hiện được thì hơn ba mươi con người đến từ phía bắc đất nước đó có thể rã xương ở trên núi. Xin các anh hãy cho bọn tôi vô tù về tội phá rừng. Lời thỉnh cầu của những con người đại bại trong cuộc thể nghiệm cơm áo đã thốt ra ngay sau khi được các vị kiểm lâm tiếp tế cho cơm ăn và nước uống. Đấy là những tình tiết về đám người di dân tự do kể từ lúc cháy làng cho đến khi bọn họ được các nhân viên kiểm lâm gom về hạt kiểm lâm. Tất nhiên, đến lúc đó thì ngài trưởng hạt đã nắm trong tay tất cả những thông tin về những con người đó. Cho đến lúc đó, lúc các vị nhân viên kiểm lâm đã đưa mọi người về đến tận hạt kiểm lâm, thì cũng không thể nói là chúng tôi bị áp giải, bỡi đích thân ngài trưởng hạt đã ra tận đằng trước sân công sở để đón chúng tôi với tư cách của một người có quyền hạn cao nhất trong việc quản lý núi rừng ở đây. Xin mọi người hãy an tâm, vì cuối cùng thì sẽ rõ trách nhiệm thuộc về ai. Rõ  ràng là trong lời lẽ của ngài trưởng hạt chẳng mang chút hơi hướng đe dọa nào, mà ngược lại còn có vẻ thân tình là khác. Trách nhiệm ông nói đây là trách nhiệm về ngọn lửa đã thiêu rụi mấy hắc ta rừng. Công việc trước tiên ở hạt kiểm lâm là tất cả những người được gom từ trên rừng về phải khai rõ họ tên và quê quán của mình. Hình như ngoài tôi với nàng và đám người di dân tự do, còn có những người đi đốt than trộm cũng được gom về đây. Hai chúng tôi là đi tìm con nước đầu nguồn con sông ấy, nên chẳng dính dáng chi tới chuyện cháy rừng. Nàng đã yêu cầu vị kiểm lâm phụ trách việc ghi chép hãy ghi thêm câu ấy vào giấy, sau khi chúng tôi đã khai báo họ tên xong. Chuyện đầu nguồn hay cuối nguồn là chuyện tiếp theo. Vị kiểm lâm nói. Quả thế, việc tiếp theo là mỗi người chúng tôi phải làm một bản tự khai là vào rừng để làm gì, vào rừng từ lúc nào, lúc vào rừng đã gặp những ai, lúc rừng cháy thì ở chỗ nào ở trong rừng, và có phải là chính mình đã gây cháy rừng hay không. Ai nói rõ hết sự thật, tất sẽ được về nhà sớm. Ngài trưởng hạt đã đề ra cái chỉ tiêu có tính chất vừa bó buộc vừa khuyến khích. Có một trở ngại đã làm chậm trễ việc kê khai. Là một số người trong đám di dân tự do vì đói quá, đầu óc chẳng còn đủ tỉnh táo để thực hiện việc tự khai. Ngài trưởng hạt có hơi lúng túng, nhưng cũng liền khắc phục được sự cố. Ông đã lệnh cho các toán nhân viên kiểm lâm phải tức khắc đem nộp về hạt tất cả số gạo đang dự trử để ăn trong tuần tra. Mai sẽ điện về cấp trên xin gạo khác, còn giờ thì rừng cũng cháy rồi, phải cho mọi người cái ăn cái đã. Ông nói với đám nhân viên của mình. Như thế là đám nhân viên này phải quay lên núi, vì gạo dự trử là đang để ở các lán tạm ở trên núi. Giải quyết sự chậm trễ này xong, lại xảy sự chậm trễ khác. Là do một số người trong đám di dân tự do không đủ trình độ để làm bản tự khai. Viết xong, thấy chẳng thành cái gì, bọn họ lại xé bỏ, tốn không biết bao nhiêu là giấy mực của hạt kiểm lâm. Thế là những cuộc vấn đáp đã   diễn ra giữa các vị kiểm lâm và những người có trình độ quá kém. Mọi sự đã được mọi người kê ra, nói ra. Như tôi với nàng thì cứ khai thật là mình đương yêu nhau, là đương đi tìm con nước đầu nguồn của một dòng sông, đêm, đương ngủ ở cái xóm trại đó thì lửa cháy tới. Như các người đi đốt than trộm thì cứ khai thật là dù biết phạm pháp nhưng cứ làm, vì nhà không đủ gạo nấu. Đám người từ phía bắc đất nước đến thì khai rằng họ đi ăn trộm rừng nên đã phải cố tránh mọi người, có nghĩa chẳng gặp ai ở trong rừng, đã chặt phá bao nhiêu cây rừng, và sẽ sẵn sàng nhận tội trước luật pháp. Mọi người đều nói   chính mình không gây ra việc cháy rừng. Như thế là mọi người vẫn chưa thể trở về nhà. Có lẽ ngài trưởng hạt đã phải kiềm chế lắm mới có được những lời lẽ ôn tồn như vậy. Và tôi đã lập tức cảm nhận ra có một thứ gì đó, có thể là một quyết đoán nào đó, hay một kế sách gì đó, đang diễn ra trong suy nghĩ của con người quyền lực nhất ở nơi đây. Ta lại bị cầm chân ở đây mất. Nàng thở dài, nói. Tôi chỉ im lặng để chia xẻ nỗi buồn của người tôi yêu. Có một biến cố nho nhỏ xảy ra là mấy người đốt than trộm đã được ngài trưởng hạt gọi vào phòng làm việc của ông. Lúc quay ra, tôi thấy vẻ mặt bọn họ có vẻ tươi tỉnh hơn. Ông ấy nghi là lửa đốt than của bọn tôi gây cháy rừng, nhưng đã có các nhân viên tuần tra làm chứng là bọn tôi vào rừng sau khi rừng cháy. Mấy người đốt than trộm nói. Cứ tưởng là mấy người ấy đã được ngài trưởng hạt cho về. Nhưng bọn họ vừa mới ra khỏi sân công sở thì có mấy vị kiểm lâm chận lại. Một lời truyền đã được truyền đi trong chúng tôi. Rằng chỉ khi nào tìm ra kẻ đồt rừng thì mọi người mới được trở về. Lập tức đám người di dân tự do kéo vô phòng ngài trưởng hạt. Chuyện điều tra về lửa là chuyện của kiểm lâm, còn bọn tôi đã chặt phá cây rừng, tức phạm luật bảo vệ rừng, thì hãy cứ cho chúng tôi vào tù. Bọn họ lại lập lại lời thỉnh cầu được đi ngồi tù như một cách thế kiếm sống sau thất bại thảm hại của cuộc thể nghiệm cơm áo. Vậy là ngài trưởng hạt lại phải ra sân công sở mới có thể tiếp được mọi người. Không có chuyện kẻ phạm luật tự đứng ra xử mình, hạt kiểm lâm chúng tôi chỉ báo lên cấp trên việc chặt trộm rừng của các người, còn có ngồi tù hay không là do trên quyết định . Ông nói. Vậy thì ngài trưởng hạt phải cho bọn tôi cơm ăn và nước uống. Đám người di dân tự do lại nhao lên. Tôi có cảm tưởng ông ấy sắp quị ngã. Nhưng các người có nghe thấy lũ chim đang ca hót ở trên rừng hay không? Có tiếng ai thốt lên trong đám người đang nhốn nháo trên sân công sở. Tôi thấy ngài trưởng hạt hướng mắt về phía có tiếng nói đó. Ông cũng là kẻ chặt trộm rừng có phải không? Con người quyền lực nhất nơi đây hỏi. Nàng chợt bám lấy   tôi, vẻ sợ hãi, khi trông thấy người đàn ông ấy tiến về phía ngài trưởng hạt. Nghe nền văn minh của các người có chuyện lủng củng, ta ghé qua coi thử. Quả tình tôi nghe giọng nói đó rất quen. Nhưng ông là ai? Ngài trưởng hạt lại hỏi. Cả tôi lẫn nàng phải kiềm chế lắm mới không thốt kêu lên, khi nghe người ấy xưng là thần coi rừng. Và bấy giờ, tôi biết không phải chỉ có tôi với nàng, mà cả ngài trưởng hạt, cả những người ăn trộm rừng, hết thảy là đang thấy người nhẹ nhỏm. Có thần coi rừng xuất hiện có nghĩa là mọi việc sẽ được sáng tỏ. Quả tình từ ngày nhà nước đặt ra ngành kiểm lâm thì việc cai quản núi rừng là do chúng tôi lo, nhưng vừa rồi xảy việc cháy rừng mà chẳng ai chịu nhận trách nhiệm, xin thần vì chuyện con người, hãy nói ra ai là kẻ đã gây ra ngọn lửa đó. Giọng ngài trưởng hạt có vẻ khẩn khoản. Chắc là thần coi rừng nhìn thấy sự ảo tưởng trong việc nắm bắt chân lý của loài người sao đó, ông bỗng cười vang. Và bắt đầu nói những lời tâm huyết. Rằng từ khi loài người biết truyền những ý nghĩ cho nhau bằng máy móc thì thần không còn trực tiếp cai quản núi rừng, nhưng không phải là không để mắt đến chuyện con người, rằng trong cuộc chuyển lưu lớn lao của vạn hữu thì không phải hễ là thần là nhìn thấy được sự thật của mọi sự, rằng ngày xưa, ngay chính bản thân vũ trụ cũng chưa biết mình do đâu mà có, thì lớp cha ông của thần quả đã cho rằng hễ là thần là biết hết mọi sự, từ đó mới có chuyện toàn trị của các vị thần, rằng ngày nay không phải văn minh chỉ xảy ra ở loài người không thôi. Thần coi rừng nói đến đó bỗng thôi nói, tiến đến chỗ tôi với nàng, nháy mắt ra hiệu hãy đi theo ông. Ta phải thoát khỏi nơi đây thôi. Tôi nói với nàng. Rồi trong lúc mọi người lộn xộn, kẻ tiến đến chỗ ngài trưởng hạt đòi được vô tù, kẻ lén ra khỏi sân công sở, tôi kéo nàng lẩn vào vạt rừng phía đông hạt kiểm lâm, nhanh chân bước theo thần coi rừng. Khi đã đi khá xa hạt kiểm lâm, ông dừng lại bảo tôi với nàng rằng, khi đã nói cho chúng tôi biết bí mật tình yêu của ông, thì chúng tôi mãi mãi là bạn thân thiết của ông. Hãy dạo chơi với ta một lúc. Ông nói. 

 

năm.
thác trời 

Mãi thật lâu về sau tôi với nàng vẫn cho đó là những giây phút tiếp cận sự thật. Buổi chiều, lúc dừng chân ở đoạn suối đó, nàng bỗng kêu lên là nước đang từ trên trời đổ xuống. Chẳng phải là thứ cảm hứng thi ca, sự kết hợp thông minh và lỏng lẻo giữa trí tuệ và tưởng tượng. Cũng chẳng phải là lóa mắt sau một ngày leo núi rạc người. Rõ ràng lúc bấy giờ là em nhìn thấy nước ở trên trời đổ xuống. Mãi về sau nàng vẫn quyết bảo lưu cảm giác mình đã trải qua buổi chiều hôm ấy. Mà đâu phải chỉ mỗi nàng. Khi nghe nàng kêu lên thế, tôi cũng lập tức cảm thấy như nước đang từ trên trời cuồn cuộn chảy xuống cái thác nước ấy. Như vậy là chúng tôi quyết định dừng lại ở đó để cùng nhau nhấm nháp thứ niềm vui có thể coi như niềm   hạnh phúc của chuyến đi, bỡi thứ cảm giác thăng hoa ấy là dấu hiệu tốt đẹp của cuộc tìm kiếm.

Giống   như các chuyến đi trước, lần này cũng là do ngẫu nhiên. Chúng tôi đang ngược về phía thượng nguồn con sông quê nàng thì gặp nhánh phụ lưu ấy. Ngược nhánh phụ lưu thì gặp con suối ấy. Rồi ngược con suối thì nhìn thấy cái thác nước ấy. Và chỗ bắt đầu của dòng suối (cái thác nước ấy là một trong những chỗ bắt đầu của dòng suối) như bất chợt ban tặng cho tôi với nàng thứ cảm thức thần thánh. Cả tôi lẫn nàng lúc bấy giờ đều cảm thấy thứ nước đầu nguồn tìm kiếm bấy lâu như đang lưu chảy trong cơ thể của mình. Có phải tình yêu vĩnh hằng cũng tựa như ta bất chợt rơi vào một giấc mơ đẹp? Nàng hỏi thế có nghĩa là cảm thấy như sắp đạt được lý tưởng đang tìm kiếm. Hay nói cách khác là tựa như ta bất chợt trở thành một thế giới khác. Cách tôi diễn tả về tình yêu vĩnh hằng là mang tính tư biện. Và nàng thì dường như đang đắm đuối nhìn vào cái thế giới tư biện ấy.

Là mưa mùa thu. Tựa như trời đất cố tình giúp tôi với nàng giữ được thứ cảm thức tốt đẹp vừa có được. Mây đen bỗng kéo đến trên vùng trời trên đầu chúng tôi. Và mưa đổ xuống. Núi nhòa vào trong mưa. Cái thác nước bấy giờ tựa dòng suối bạc đang ùa chảy vào trong mưa.

Ngồi ở trong mưa đã trở nên quen thuộc đối với chúng tôi trong các cuộc tìm kiếm sự vĩnh hằng của tình yêu. Đã có áo che mưa ( luôn sẵn trong hành trang) để che tôi với nàng. Nhưng để che tôi với nàng và che cả áo che mưa là sự cố kết làm bằng niềm cảm xúc luôn ùa vỡ về phía người mình yêu, có nghĩa, không có áo che mưa, thì dẫu hết thảy trời đất có sập xuống thành cơn mưa cũng chẳng làm gì được chúng tôi. Có lẽ nàng im lặng ngồi trong mưa là để củng cố sự cố kết của tình yêu chúng tôi đã gầy dựng được. Còn tôi thì cứ nghĩ đến cái thác nước như một dấu tích của một cuộc chuyển động nào đó của đất. Vào một ngày nào đó, mờ mịt đối với trí tuệ con người, để tạo riêng dáng vẻ cho mình, đất đã làm một cuộc phiêu lưu có tính cách định mệnh. Bỡi sau cuộc phiêu lưu, còn có tên là cuộc trôi dạt (đùn tắc và vỡ nứt, nhập vào và rứt ra…) là cuộc phô bày hình thù của tồn tại.   Núi, sông, ghềnh, thác, biển khơi…Những cái tên gọi có vẻ tiền định đã được gắn với những hình thù của tồn tại.

 

sáu.
bài hát của rong rêu. 

Đêm, những hình thù của tồn tại tiếp tục lung lạc trí tưởng tượng của tôi. Tình yêu vĩnh hằng cũng tựa như… Có lẽ đang trải qua cơn mơ đẹp đẽ nào đó, nàng gác tay lên người tôi, nói một cách cầm chừng về tình yêu vĩnh hằng. Nằm nơi bờ suối, trên đầu là vòm trời sao chỉ đủ để tạo nên thứ cảm giác vô tận, rừng đêm thì như   còn ôm ấp hơi thở mát lành của cơn mưa đầu mùa thu, phải nói là tôi với nàng đang

chiếm giữ những gì sang trọng nhất của trời đất. Tôi đoán chừng là tiếng nước   reo phát ra từ cái thác nước đầu nguồn ấy. Trông thì gần vậy, nhưng từ chỗ chúng tôi nghỉ lại đêm đến thác nước ấy là còn rất xa. Tôi nằm nghe tiếng thác reo. Một chặp thì như có ai băng qua rừng đêm làm cho tiếng thác không còn đến được với tôi. Và liền sau đó như có tiếng ai đó đang nói về những cách thức của cuộc tồn sinh,

 

trên đường tiến tới sự hoàn tất của một sinh linh thì lũ các người đã không thành con chồn con mang trên núi…

 

Tôi hỏi đó là ai lại nói ra được những chuyện to tát như thế.

 

Một con người đứng thẳng, hay một con giun một con dế, cũng thế thôi, trên đường tiến tới sự hoàn thiện của một sinh vật là cuộc dong ruổi lớn nhất trong trời đất.

 

Rõ ràng là tiếng ai đó   rất thân quen, tiếng của một con người trần thế.

… Ta vốn là rong rêu. Chuyện ấy thì có hệ trọng gì đâu. Bỡi cũng có thể nói ta vốn không phải rong rêu, mà vốn là đá. Mà vốn là đá, hay vốn là rong rêu, thì có hệ trọng gì đâu. Bỡi cũng có thể nói ta vốn không phải   đá, cũng không phải rong rêu, mà vốn là tịch nhiên hư ảo, là bất định, là trùng điệp lưỡng hành liên hồi kỳ trận. Nhưng ta thì vẫn thích người ta bảo ta là rong rêu. Xin chào rong rêu! Nghìn năm, hay triệu triệu năm, thì cũng chỉ là nửa cuộc giang hồ. Áo ai bay giữa màu u uẩn. Trời nghiêng. Biển nghiêng. Cơn giận dữ đâu có bến bờ. Mà cũng chẳng biết ai gây nên giận dữ. Hay vì đâu giận dữ. Và có thật là giận dữ hay không. Cứ ngỡ là khí cốt tiêu ma giữa cuộc ngửa nghiêng. Nhưng không. Vào một ngày, có phần bớt đi u uẩn, nhưng trời biển vẫn cứ ngửa nghiêng, ta bỗng nhận ra có cái gì đó như là sự biến đổi diễn ra ở trong ta. Thì ra, đã có một cuộc hóa sinh xảy ra giữa trời đất. Đám đồng bào của ta lúc bấy giờ gọi ta là con vật ở trong nước. A, là con vật. Chứ không phải là rong rêu. Ta chẳng thấy buồn. Mà cũng chẳng thấy vui. Bỡi, là con vật ở trong nước, hay là rong rêu, thì có hệ trọng gì đâu. Ai dọc ngang giữa sóng nước nghìn trùng. Nghìn năm, hay tỉ năm, thì cũng chỉ là nửa cuộc giang hồ. Đồng bào của ta, một lũ phồn tạp, nhiêu khê. Có đứa, cả đời ngậm hến, không nói nửa lời. Có đứa, áo xiêm lòe loẹt. Mà áo xiêm lòe loẹt cũng chỉ là để đánh lừa đồng loại. Áo xiêm cũng chỉ là những cái bẩy nhử mồi. Tạo hóa trớ trêu bày cuộc ăn nhau. Có ăn nhau, có chết, nhưng vẫn cứ thêm ra. Hình thù thêm ra. Cách ăn, thở, tức cách sống chết, thêm ra. Có đến một nghìn lẻ một hay một tỉ lẻ một kiểu hình hài dọc ngang nơi nghìn trùng sóng nước. Kể từ nay, lũ các ngươi là con vật có xương sống. Vào một hôm có vẻ biển lặng sóng êm, tạo hóa rỉ tai bọn ta. A, kể từ đây có một lũ bọn ta là con vật có xương sống. Với ta, có xương sống hay không thì có hệ trọng gì đâu. Bỡi điều cốt tử trong cuộc tồn sinh là có thoát khỏi những cuộc ăn nhau hay không. Và tạo hóa lại tiếp tục rưới xuống những phép màu. Đất trời lồng lộng vẻ kiêu sa. Có những niềm vui quá lớn làm nhòa đi ký ức. Ta đâu còn nhớ đấy là hôm nào. Cái hôm bừng con mắt dậy thấy mình trên khô. Phải, ta đã trở thành con vật trên mặt đất. Đồng bào của ta, có kẻ còn nuối tiếc nơi cắt rốn chôn nhau, quay về với sóng nước nghìn trùng, làm xong công việc truyền sinh, mới trở lại mặt đất. Bấy giờ ta nào biết con cháu đám nửa cạn nửa nước này mãi về sau đã suýt làm chủ mặt đất. Bấy giờ đâu phải chỉ mỗi đám đồng bào cố cựu của ta. Đã bắt đầu nghe gió trút trên ngàn. Cái đám sinh linh, cũng từ dưới nước trườn lên cạn như bọn ta hôm nào, đã làm một cuộc chiếm lĩnh mặt đất. Hiển hoa và không hiển hoa. Trùng trùng điệp điệp cỏ cây. Đường đi trên mặt đất tuy có rợp bóng cỏ cây, nhưng đám sinh linh không tim gan phèo phổi ấy lại tặng cho bọn đồng bào cố cựu của ta thứ hơi thở trong lành. Một cuộc sống chung, hòa thuận có, không hòa thuận có, đã diễn ra trong trời đất, giữa đám sinh linh có tim gan phèo phổi và đám sinh linh không tim gan phèo phổi. Cứ tưởng từ đây ta ung dung tận hưởng những hào hoa của cuộc tồn sinh. Nhưng không. Cuộc bể dâu nơi mặt đất là nghìn lần triệu lần lớn hơn cuộc bể dâu nơi sóng nước nghìn trùng. Lửa và xú khí là được ném xuống mặt đất từ bàn tay ác nghiệt của tạo hóa. Máu và những tiếng kêu trầm thống có lan ra khắp nơi chốn là do đám vật to lớn cả ngày lẫn đêm lo gầy ra các cuộc ăn nhau. Còn đất thì   cứ mấy hôm là thay đổi hình hài, những vùi lấp là diễn ra như cơm bữa. Ta, bấy giờ chỉ là một con chuột chũi nấp dưới lớp cỏ khô, chỉ mỗi bước chân của   con chồn con mang cũng đủ dẫm chết, huống hồ là cuộc chuyển mình của đất. Vậy mà ta vẫn cứ còn đó cho đến ngày giá buốt phủ lên cõi tồn sinh và con cháu của đám nửa cạn nửa nước đang gây cuộc tàn sát lớn nhất trên mặt đất, vẫn cứ còn đó cho đến ngày   thôi giá buốt và con cháu đám nửa cạn nửa nước không còn tồn tại. Xin chào bác homo sapien ! Đám đồng bào của ta nơi mặt đất đã bớt lạnh lẽo gọi ta là bác homo sapien. Là homo sapien, hay không là homo sapien, thì có hệ trọng gì đâu. Bỡi điều đáng nói là ta đã vượt qua cuộc thử thách lớn nhất trong trời đất, cuộc thử thách diễn ra hằng triệu triệu năm, để được thiên hạ trong trời đất gọi ta là   con người …

 

Sợ nàng lại nói gì đó trong mơ làm mất đi sự tĩnh lặng thiêng liêng, tôi đặt tay lên ngực nàng để giữ lấy trái tim đang yên ổn trong giấc ngủ yên ổn của nàng. Và tiếp tục lắng nghe vị tổ phụ loài người nói về nỗi gian truân trong cuộc tiến hóa của loài giống con người.

 

bảy.
thần cổ xưa. 

Có phải có một thứ hạnh phúc chỉ biểu hiện bằng nụ cười kín đáo ở trên môi? Sáng hôm sau, lúc thức dậy, tôi đã nhìn thấy nụ cười như thế trên môi nàng. Phải nói là tiếng chim rừng vào sáng tinh mơ làm cho ta có thứ cảm giác đang tăng thêm sức sống. Em nằm mơ thấy mình đã tóm được sự vĩnh hằng của tình yêu. Nàng nói, nửa thật nửa đùa. Tiếng chim rừng bỗng rộ lên như để chúc mừng nàng. Có lẽ trông thấy ánh mắt đờ đẫn của tôi, nàng hỏi là cả đêm tôi mất ngủ phải không? Tôi bảo không phải   mất ngủ, mà là do thức để trò chuyện cùng vị tổ phụ loài người. Dù tỏ ra không tin, nhưng nàng vẫn hỏi là trò chuyện những gì. Tôi bảo là về cuộc tiến hóa của loài giống con người. Nàng bảo về cuộc tiến hóa thì đã có bao nhiêu sách vở của con người thời hiện đại, cần gì phải trò chuyện với tổ phụ loài người. Tôi bảo đọc sách thì làm sao bằng nghe chính người trong cuộc kể lại. Anh không lừa được em đâu. Nàng một hai cho rằng tôi bịa chuyện. Còn tôi thì cố làm cho nàng tin đấy là chuyện thật. Nếu như sáng hôm ấy không có thần ánh sáng hóa thạch xuất hiện, chẳng biết là chúng tôi còn cãi nhau đến bao giờ.

 

Khi có mặt ta, các người có thấy lạnh lắm không?

 

Thần hóa thạch hỏi. Về chuyện này thì nhờ đọc sách,   cả tôi lẫn nàng đều biết. Gần mười bốn tỉ năm lặn lội qua chín mươi chín cõi trời bạo liệt, khi đến được với loài người thì thần ánh sáng chỉ còn là một khối lạnh lẽo u buồn. Tôi nói nếu như cảm thấy được điều thần vừa hỏi thì loài người đã không phải tốn bao nhiêu năm tháng vác xác ra tìm kiếm, vắt óc ra nghĩ ngợi, mới nhận ra sự có mặt của thần. Thần hóa thạch bảo như thế cũng phải thôi, vì không thể nhìn thấy cái nhờ nó con người mới nhìn thấy. Dường không phải chỉ xua đuổi tăm tối khỏi mặt đất, mà thần còn làm bừng lên trong trí tuệ loài người những khao khát cao sang? Lời tra hỏi của nàng là cũng mang niềm khao khát cao sang. Thần hóa thạch nhìn người con gái tôi yêu bằng thứ cảm thức nghìn năm không mỏi, rồi hỏi làm sao chúng tôi lại có thể gặp   nhau giữa trần gian trăm nẻo? Nàng bảo là nhận ra nhau, chứ không phải là gặp nhau. Thần hóa thạch bảo ngôn ngữ của loài người quả vô cùng giàu có, nhưng dẫu có biến hóa cách nào cũng chẳng thể diễn tả   nổi tồn tại? Tôi hỏi trong trời đất thì thứ ngôn ngữ nào là diễn tả nổi tồn tại. Thần hóa thạch bảo con chim trên rừng nói hay hơn con người, nhưng lại chẳng biết cách xếp đặt lại sự vật trong trời đất, con cá dưới nước nói giỏi hơn con người, nói giỏi hơn vì nói mà chẳng thành tiếng, nói giỏi, nhưng lại chẳng thể làm cho kẻ khác hiểu mình đang nói gì, nghĩ gì. Như thế tồn tại mãi mãi là điều bí ẩn đối với muôn loài? Lại một lời tra hỏi nữa của nàng mang niềm khao khát cao sang.

 

Thì chẳng phải việc các người nhận ra nhau giữa trần gian trăm nẻo cũng là điều bí ẩn hay sao?

 

Thần ánh sáng chợt nhắc đến tình yêu của chúng tôi. Và bắt đầu nói về những hiển hách, những cay đắng, lầm than, về những hoang phí máu xương, hoang phí hư danh trong trời đất.

 

…Có cái gì là chẳng ngoi lên từ cõi hỗn mang ? Một vùng trời đất âm thầm, từ đấy ngân vang những giai điệu nguyên sơ. Sáng tỏ và u uẩn. Ôm ấp và cô đơn. Mở và khép. Gặp lại và chia xa…Buổi ban đầu ấy là một cuộc lưu luyến kỳ cục giữa ngẫu nhiên và tất yếu. Ai đã ngang qua đất trời lãm thúy? Theo cách diễn đạt của loài người thì khi vũ trụ thổi ba trăm nghìn ngọn nến mừng tuổi của mình cũng là khi ta có mặt giữa đất trời lãm thúy. Chỉ con chim bằng mới dời từ bể bắc sang bể nam, con chim cưu thì chẳng thế. Đem con chim cưu so với con chim bằng, con người thấy thế. Nhưng đem tuổi vũ trụ so với tuổi ta thì chưa chắc con người đã thấy đúng. Bỡi làm sao con người lại có thể nhận ra sự khác biệt giữa mười bốn tỉ ngọn nến với thiếu ba trăm nghìn mới đủ mười bốn tỉ ngọn nến lúc vũ trụ cùng ta thắp lên để mừng tuổi của mình.

 

Nhưng rốt cuộc thì có phải là thần được sinh ra từ vũ trụ hay không? Tôi xen vào hỏi.

 

Nói vũ trụ cưu mang ta cũng chẳng phải, mà không cưu mang ta cũng chẳng phải. Mới cách đây mấy hôm, ta nghe vang lên khúc ca về tồn tại. “Tất cả là một”. Ai đó trong loài người đã cất cao tiếng hát về tồn tại. Dường đứng ở đâu đó nơi bờ biển phía tây mà hát. Cũng mới cách đây mấy hôm thôi, ta cũng nghe có những ai đó cãi vã nhau về chuyện nguồn gốc. Người nói cái này là sinh ra cái kia, người bảo cái kia là sinh ra cái này. Cãi vã từ ngày này sang ngày khác, từ năm này sang năm khác. Và dường như những con người thích cãi vã nhau ấy lại được loài người tung xưng là minh triết, là hiền triết. Ta thì chẳng thích cách cân đo đong đếm ấy của con người. Cứ rong chơi bốn biển nhưng chẳng biết là rong chơi. Xin chào ánh sáng. Đến lúc nghe người ta chào hỏi, ta mới biết   mình là ánh sáng. Nhưng liền   đó lại là cuộc ngẫu lục tang thương. Hóa ra, người ta chào hỏi ta là để xe duyên kết tóc cùng ta, là để làm cuộc ái ân, để trở thành kiếp khác. Nói kiếp khác là nói theo cách của con người. Trở thành kiếp khác là để trở thành kiếp khác nữa cũng có tên là ánh sáng. Trở thành ánh sáng nữa   là để làm cuộc ái ân nữa. Rong chơi hóa ra là dâu bể. Xe trời ai cỡi đi đâu. Rong chơi hóa ra là tạo tác. Buổi ban đầu ấy là một cuộc sinh nở kỳ quái, một cuộc loạn luân vĩ đại nhất và cao cả nhất. Đừng tưởng phản bội là đê tiện, xấu xa. Bỡi phản bội với không phản bội là đã làm nên cuộc ân tình nguyên thủy. Ta có được nghìn năm thơ thẩn bóng hình rong chơi là cũng nhờ một chút chuyển mình của cuộc ân tình nguyên thủy.

 

Hóa ra sự phản bội xảy ra giữa loài người trên mặt đất này là cũng có nguồn gốc từ thứ phản bội nguyên thủy của vũ trụ? Nàng xen vào hỏi với giọng sợ hãi. Thần ánh sáng hóa thạch cầm lấy bàn tay người con gái tôi yêu như để chia xẻ niềm âu lo nhân thế.

 

Một chiếc lá chết vào mùa thu, một niềm vui lặng lẽ của con ốc sên nơi kẻ đá, từ thứ thấy rõ nhất là mặt trăng mặt trời cho đến thứ chỉ nghe tiếng chứ chẳng thể nhìn thấy hình là đám côn trùng nơi bờ bụi, tất cả là đều bắt nguồn từ cuộc sinh nở nguyên thủy, sự phản bội của con người trên mặt đất là cũng bắt nguồn từ cuộc sinh nở ấy, có điều phản bội nguyên thủy sau khi làm cuộc ân tình với không phản bội sẽ sinh ra ánh sáng, còn phản bội của loài người các người là sinh ra bóng tối.

 

Thần ánh sáng hóa thạch diễn giải về nguồn gốc thống khổ của con người. Tôi hỏi thế thì có cách nào để cho loài người giữ được những trinh nguyên của cuộc sinh nở nguyên thủy. Thần chợt buông tiếng thở dài, hỏi chúng tôi đã có lần nào nghe nói đến bóng đêm nguyên thủy? Thưa chưa. Nàng đáp, có vẻ háo hức của trẻ thơ.

 

 

Vào một ngày đám phản bội và   không phản bội nguyên thủy hầu như bị diệt vong, có nghĩa như đã chấm dứt cuộc ân tình nguyên thủy, đám ánh sáng đồng loại của ta cũng thôi sinh sôi nảy nở, đám không phản bội nguyên thủy còn sống sót sau cuộc diệt vong bắt đầu hóa kiếp choán kín cả đất trời, vũ trụ chẳng còn chỗ chen chân, ta bắt đầu sống giữa đêm trường tăm tối, biết là tiếng đàn ai oán của   đồng loại mình ngân lên ở góc trời đâu đó, nhưng chẳng thể dời chân, chỉ còn khóc thầm chờ cho qua cơn sóng gió.

 

Dường như thần ánh sáng hóa thạch nói đến chỗ đó thì lén kéo áo chùi nước mắt. Còn tôi thì hô hoán lên là mình đã hiểu được ngôn ngữ của thần, rằng phản bội với không phản bội thì sách vở của con người gọi là vật chất và phản vật chất, và khi đám phản vật chất bị diệt vong, đám vật chất còn lại đã choán kín đất trời, thần ánh sáng hóa thạch gọi là đêm nguyên thủy. Nhưng sau đó là những cuộc kết hợp phong lưu của vũ trụ, và thần ánh sáng lại tiếp tục cuộc rong chơi. Nàng cũng chiếu theo sách vở để tiếp sức cho tôi. Thần hóa thạch bảo cho đến lúc đuối sức, không còn tham dự vào cuộc chơi hóa kiếp, thì loài người nói thần đã hóa đá. Tôi nói, ngoài cách gọi hóa đá, sách vở còn gọi là bức xạ hóa thạch, nhưng chúng tôi thì thích gọi thần là thần cổ xưa.

 

Cũng được thôi, bỡi có biến hóa cách nào thì thứ ngôn ngữ sản sinh từ trí tuệ hạn hẹp của loài người các người cũng chẳng thể nói hết về ta.

 

Có lẽ   những lời cao đạo của thần ánh sáng hóa thạch đã chạm vào tính hiếu thắng của người con gái tôi yêu, nàng bắt đầu nói với giọng khiêu khích như vẫn thường nói với những kẻ trần gian nàng thích khiêu khích, rằng trí tuệ con người có   hạn hẹp thật, nhưng cũng đủ sức nhận ra kẻ đã sinh ra trước mình những mười ba mười bốn tỉ năm, rằng quả tình, nếu không có loài người thì thần ánh sáng hóa thạch mãi mãi là kẻ vô danh trong trời đất.

 

Nói theo cách của con người thì ta là hư danh, mãi mãi hư danh, thì chẳng phải ta mãi mãi là vô thanh vô hình đấy sao. Có điều, nếu không có ta thì loài người chẳng nhìn thấy được thứ gì, nhưng ta thì ta nhìn thấy đến tận tổ tiên các người, có một hôm ta nhìn thấy tổ tiên các người ngoi ra từ trong đêm trường tăm tối, chẳng ai ngờ cái hạt bụi đáng thương ấy về sau lại trở thành người con gái biết cách trò chuyện cùng ta, có một hôm ta nhìn thấy tổ tiên các người đang ngoi ngóp trườn đi giữa cõi bờ sinh diệt, ta nào biết ai đã ghi tên loài người các người vào cuốn sổ của tồn tại, có một hôm ta nhìn thấy tổ tiên các người trong một cuộc chơi của hoàn vũ, kẻ chỉ huy cuộc chơi, nói theo ngôn ngữ loài người là một đứa bé, là hóa nhi, bắt đầu đi, thằng bé hô, cũng theo ngôn ngữ con người thì đấy là những con bài, những con bài đã được tung vào vô tận, những con bài đã ghi sẵn những địa chỉ, rõ ràng và minh bạch, thuyền chèo dưới biển, khỉ trèo lên non, hóa nhi sao khéo đặt bày, mà về sau, cũng mới hôm nào đây thôi, ta nghe có người trong loài người các người hết lời ca ngợi, hóa nhi bỗng hóa trời cao, nhưng cũng không phải là ít lời nguyền rủa, trời cao bỗng thành mây chó, dường như lúc bấy giờ tổ tiên các người là một thứ bọt nước thì phải, một thứ bọt nước trong biển nguyên thủy, nhưng chỉ mấy hôm sau thì ta thấy trở thành một con cá, mấy hôm sau nữa lại hóa thành một thứ chi na ná với loài vượn loài khỉ, ta nói cho các người biết đấy là một cuộc chơi chẳng ai lường trước được điều gì sẽ xảy ra, một cuộc chơi buồn cười nhất trong lịch sử trời đất, có nghĩa, lúc bấy giờ, tổ tiên các người có thể là một hòn đá, có thể là một quả xoài hay một quả mít trên cây, có thể là một con còng xe cát ở bãi biển, hay là một con ốc sên chui ra chui vào nơi bờ suối, các người có đi hỏi ông tổ vạn đại của kẻ chỉ huy cuộc chơi thì cũng chẳng thể nói tại sao lại thế, có nghĩa, lúc bấy giờ có thể tổ tiên các người là một con chồn con mang, và hình hài ấy là giữ mãi cho đến hôm nay, giá như các người ngày hôm nay là con chồn con mang trên núi thì cũng chuyện trò với ta như là các người đang chuyện trò với ta, bỡi tất cả là đều bắt đầu từ cuộc sinh nở kỳ quái ấy, nếu nghĩ như loài người các người thì ta đã là người thiên cổ, kẻ đã chết, nhưng ta vẫn còn trò chuyện được với các người, có nghĩa là ta vẫn còn sống, quả tình ta vốn là tác nhân của cuộc tồn tại, nhưng giờ thì ta đã hóa đá, có nghĩa chẳng thể tham gia vào cuộc thay đổi loài người các người, có gọi ta là thần thì ta vẫn là bạn của các người, trần gian nửa nẻo đi về non tiên, mà thôi, các người đã gặp được ta thì coi như đã ra khỏi cõi tri thức nhỏ bé thiển cận, thì chẳng phải cái chớp mắt của ta thì các người lại bảo là nghìn thu hay sao, và còn điều này nữa, ta phải nói cho các người rõ, chân lý hay sai lầm của loài người các người chỉ là cách nói vui, bỡi những thứ đó là còn phải tìm kiếm, những thứ đó là còn ở phía trước, có thể một ngày nào đó thì loài người các người sẽ trở thành   bóng tối như trời đất này sẽ trở thành…

 

tám.
trút xác

Tựa một cuộc trút xác, cả tôi lẫn nàng gần như mất hết những khái niệm về thời gian không gian cố hữu. Đêm, nàng thức trò chuyện cùng hóa nhi. Nhưng đâu còn phân biệt   ngày đêm mà nói thức với ngủ. Có người hỏi kẻ này, hỏi hạt bụi này, hóa nhi là ai? Kẻ này bảo đấy là một đứa bé thích những trò chơi làm nát lòng con ve sầu trên cây thong dong. Lại hỏi về cây thong dong. Thưa, có bao giờ thấy mặt trời mặt trăng vội vã đâu, nếu là biển, thì sáng tinh mơ, mặt trời trườn đi ở trên nước, nếu là bầu trời đêm có nhiều mây, thì mặt trăng ẩn hiện ở trong mây, cái cách như thế của mặt trời mặt trăng thì gọi là thong dong. Nhưng cây trên rừng thì khác với mặt trời mặt trăng? Sao lại khác. Kẻ này lại viện đến hóa nhi. Lúc bấy giờ thì kẻ này bảo hóa nhi là một đứa bé thích thứ trò chơi làm cho cây trên rừng trỗ bông, nghe mùi hương, lũ ong kéo đến, hút mật xong thì bay đi, nói hút mật nhưng là để làm cuộc truyền sinh, mùa xuân thì trỗ hoa, sang hạ thì lũ ong kéo đến, bước qua thu là có quả…như thế chẳng phải là thong dong sao? Lại hỏi hóa nhi là ai mà con người có thể vừa ngợi ca vừa nguyền rủa? Kẻ này, hạt bụi này, lại phải nói đến sự lặng lẽ. Có góp lại hết thảy những gì dưới gầm trời này, từ tiếng rỉ rả của lũ côn trùng cho đến tiếng rền của núi, thì cũng chửa bằng một tiếng tơ lòng. Thì chẳng phải đất trời này cũng bắt đầu từ một tiếng tơ lòng? Lặng lẽ mà sắp bày. Một thuở có không làm cuộc giao hoan. Từ đấy chảy về dòng càn khôn lặng lẽ. Có ca ngợi hay nguyền rủa thì trời đất có nói gì đâu. Lại hỏi như thế thì ca ngợi hay nguyền rủa là ca ngợi nguyền rủa chính mình? Kẻ này bảo, thói hư danh với con người cũng tựa như con sâu với chiếc lá… Giờ thì em phải đi gặm cỏ đây. Khi thôi trò chuyện với   hóa nhi, nàng quay sang tôi, bảo là   thấy đói, phải đi tìm cỏ. Tôi hỏi đi tìm ở đâu. Nàng bảo đấy là giống vật cũng từ dưới nước trườn lên bờ cùng lượt với lũ cóc ếch nhái. Tôi bảo, giờ thì gọi là những cánh đồng cỏ. Mới hôm nào đây, có người đã ca ngợi lá cỏ.   Nàng bảo. Tôi bảo, mới hôm nào đây thôi, thì cái giống vật to lớn ấy đã phá nát những cánh đồng cỏ tươi tốt trên mặt đất. Đừng nhắc đến chuyện ấy nữa. Nàng bảo, và cứ ôm lấy người tôi. Tôi cũng ôm lấy người nàng, vuốt ve nàng từ đầu đến chân. Khi tay tôi chạm lên lớp áo lông mịn màng của nàng, tôi hỏi nàng có cảm thấy hạnh phúc không. Nàng bảo có. Như ngày hôm nay em không phải là giống vật gặm cỏ, mà là một con người, thì sẽ đau khổ biết bao. Giọng nói dịu dàng của nàng như đang hóa thành thứ hương thơm mùa thu. Và tôi thì cảm thấy mình nhẹ tênh như chiếc lá mùa thu đang rơi trong thứ hương thu kỳ bí. Về sau, khi mọi thứ đã trở lại bình thường, chúng tôi mới biết là mình vẫn quẩn quanh trong khu rừng có đoạn suối chúng tôi đã gặp thần ánh sáng hóa thạch. Quẩn quanh ở trong rừng bao nhiêu ngày ai mà biết. Nhưng khi gặp những người đi đãi vàng hỏi thì chúng tôi bảo là gần nửa nghìn ngày. Bọn tôi hỏi thì anh chị bảo là ở đây gần nửa nghìn ngày. Những người ấy kể lại. Bọn họ đi đãi vàng ở thượng nguồn con suối, gần cái thác trời ấy, vàng chẳng có, quay về đến đoạn suối ấy thì gặp chúng tôi. Bọn họ có cả thảy là năm mươi người. Chẳng biết tôi và nàng bị bệnh gì, nhưng bọn họ cứ chia nhau đi hái lá thuốc. Năm mươi người là năm mươi bài thuốc. Chẳng biết là bệnh gì, nhưng ngày ngày bọn họ cứ bắt chúng tôi uống lá thuốc. Những cảm thức trần gian từ từ trở lại với chúng tôi. Cho đến lúc   chúng tôi nhận ra mình là ai, và nhận ra những người đi đãi vàng,   thì bọn họ mới chia tay chúng tôi. Cứ coi như chuyến đi không thành. Bỡi cái thác trời không còn là niềm cảm hứng trong cuộc truy tìm chân lý. 

 

chín.
sách máu, sách gươm 

Mùa thu năm ấy chúng tôi ngược về thượng nguồn một nhánh sông của con sông quê nàng. Và bị cầm chân ở ngôi làng ấy. Khoa học hiện đại dù đã phát hiện được bao nhiêu là luật lệ của trời đất, nhưng những con người ở ngôi làng ấy vẫn khăng khăng vị thần làng của mình là thần của tất cả các thần, là tổ thần, không có vị này thì không có người làng và cũng không có cả loài người. Đây không chỉ là niềm tin, mà còn là một nhận thức được căn cứ trên thần tích còn lưu giữ ở đình làng, và lời truyền về thần như một văn bản văn học có rất nhiều phiên bản, tức thứ văn học đa thanh đa nghĩa.

Mùa thu ở đây có gió núi ở thượng nguồn thổi lại. Làng trải dọc hai bên bờ con sông cạn và hẹp như đang lặng đi trong thứ sắc thu cổ kính. Mà cũng quả vậy, cuộc sống nơi đây là một quá trình lặng đi. Không phải là không muốn để cho các thứ huy hoàng lộng lẫy của nền văn minh hiện đại thâm nhập vào xóm làng mình. Mà là vì nghèo, tức vì không đủ tiền bạc để thành lập kênh dẫn văn minh. Trong nhà, không máy thu hình, không máy thu tiếng, là một quá trình lặng đi. Trên đồng ruộng, đôi bò cày vẫn không chịu nhường chỗ cho chiếc máy cày, cũng là một quá trình lặng đi. Và tôi với nàng cũng lặng đi trước những lời truyền về con người đã làm ra đất đai và con người của làng.

 

Ông dậm chân một cái là có trời đất. Ông ngoắc tay một cái là có nắng mưa. Ông cục cựa một cái là có núi, có sông, có ruộng đồng. Là con người, thì ông sinh ra người làng này, còn nói chi nữa. Mà ông là thần, nên ông còn sinh ra các thứ như trâu bò, lúa thóc, cỏ cây, còn nói chi nữa. Làm ra mọi thứ xong thì thứ chi cũng là của người khác. Rốt cuộc ông là kẻ nghèo nhất. Ông nghèo vậy, thì sinh ra dân làng cũng nghèo, còn nói chi nữa.

( Lời kể của một bà lão )

 

 

Sách của ông chỉ có mỗi một trang, mà mỗi người đọc thấy mỗi khác, mỗi thời đọc thấy mỗi khác.

( Lời trong thần tích đang lưu giữ ở đình làng)

 

Vào thời con người chưa có lời nói thì sống với nhau hòa thuận như đám gà con vừa mới ra khỏi trứng. Ở trong làng ai cũng biết mình là do ông tổ loài người tạo ra. Biết, mà chẳng thể nói với nhau về điều ấy. Cũng như ai cũng muốn mà chẳng thể nhìn thấy mặt người đã tạo ra mình. Ngày ngày chỉ trông thấy cuốn sách của ông đã để lại cho làng. Mỗi khi có người nghĩ được điều chi về ông thì chỉ lấy đôi mắt của mình để ra hiệu với người khác. Rồi một hôm, bỗng có người nói ra được ý nghĩ của mình. Sách thần. Người ấy nghĩ cuốn sách ông tổ loài người để lại cho làng là sách thần. Và nói ra cho mọi người nghe. Kể từ hôm đó, người trong làng đã bắt chước người đó để nói ra những gì mình nghĩ được.

Vào thời con người đã có lời nói thì sống với nhau như đám gà mẹ nuôi con. Chỉ mỗi khoảnh sân nhỏ quanh giếng nước ấy mà sáng nào đám gà mẹ cũng giành nhau bươi để tìm mồi cho lũ con, vừa bươi, vừa đá nhau chí chết, vừa đá nhau, vừa há mỏ la chí choát. Trước đó, người ta ăn chung, ở chung, và cày ruộng chung trên đồng làng. Nhưng khi đã nói được, thì người ta lại nói với nhau rằng phải chia đất ruộng ra, để ai làm nấy ăn. Rồi đến một ngày, chẳng ai bảo ai, nhưng người nào cũng đi tìm sắt về để rèn đao kiếm. Không nói ra những ý nghĩ của mình, nhưng ai cũng nghĩ là ai chém giết giỏi hơn, thì người ấy sẽ có nhiều ruộng đất hơn. Nhưng trước khi chém giết   nhau, ai nấy đều đến đình làng xem sách thần để coi thử ông tổ loài người có nói gì với mình không. Rồi người ta lại dấu nhau về điều này. Là khi nhìn vô sách thần, ai cũng thấy hiện lên một đám vật, hổ không ra hổ, người không ra người, đang cấu xé nhau, và máu thì đương chảy thành dòng. Người ta đã dấu nhau những gì đã nhìn thấy trong sách. Và bắt đầu chém giết nhau. Cuối cùng thì trong làng chỉ còn sót mỗi người đàn ông và mỗi người đàn bà. Hai người lại đi xem thử sách thần có nói gì không. Thì thấy hiện lên nơi trang sách lúc nhúc những người là người.

( Lời kể của một vị sư ở ngôi chùa trong làng )

 

 

Bấy giờ là đang thuộc về một triều đại mà vua của nước muốn tỏ ra là vị vua quí trọng tri thức. .Nhà vua đã sai người đi sưu tập sách vở do các bậc thức giả trong nước soạn. Rồi cho xây nhà chứa sách ở kinh đô để cất giữ số sách vở ấy. Người sưu tập nghe làng này có cuốn sách thần, liền tìm đến, và đòi mang sách đi, nhưng người làng đã không cho. Bất luận là sách của ai, của thần hay của người, đều phải mang về cho ta. Vua phán. Người sưu tập sách lại ra đi, rồi quay về triều tấu trình với vua rằng, người làng ấy bảo sách là do thần của làng làm ra cho làng, chứ không phải cho vua. Ta sẽ tống cổ đám dân ấy ra khỏi nước. Vua tức giận quát ầm lên giữa đám quan triều. Rồi đích thân đến làng này, lệnh cho hết thảy dân làng đến nghe huấn dụ. Ta vì yêu quí tri thức của con người, nên mới có việc sưu tập sách vở, chỉ những kẻ ngu dốt man rợ mới cản trở việc làm của ta. Vua huấn dụ dân chúng xong thì bảo dẫn đi xem sách thần. Vị trưởng tế của làng liền đưa vua vào hậu tẩm đình làng, nơi đặt sách thần. Đèn đã được thắp sáng, có thể nhìn rõ từng cây kim sợi chỉ. Và đúng vào lúc vua nhìn vào sách, thì hình ảnh vua đang cầm gậy xua đuổi đám dân của mình hiện lên ở trong sách. Không phải chỉ có hình ảnh giận dữ của vua thôi, mà cả lời vua nói trước bá quan cũng hiện lên đầy đủ ở nơi trang sách. Sách này là chép về ta ư? Vua hỏi, giọng lơ lửng như đang trong mơ. Thưa đức vua, chắc là thế. Vị trưởng tế cũng đâu hiểu hết sự việc, vì đây là sách của thần, nên cũng chỉ trả lời cho có lệ.

Vua muốn tức thời mang sách về kinh, nhưng vừa nghĩ thế thì sách đã biến khỏi mắt vua.

Rồi người ta cũng chẳng để ý chi việc vua tỏ ra là vị vua quí trọng tri thức. Có nghĩa, ở trong nước chẳng có người dân nào mở miệng ca ngợi vua về việc làm này. Còn các vị vua lân bang thì cũng chẳng có ai đá động đến chuyện đó.

Vua cho rằng việc làm vua thì có nhiều người làm. Nhưng làm vua thế nào cho thiên hạ dưới gầm trời này đều nể, thì chẳng có mấy người. Rồi vua nhớ đến cuốn sách thần mà mình đã đọc. Và   lại đích thân đến làng này. Cũng như lần trước, lần này là vua muốn nhìn thấy những gì vua vừa nghĩ là được chép trong sách thần. Nhưng dưới ánh sáng của ngọn đèn dầu nơi hậu tẩm đình làng, vua chỉ nhìn thấy một bầu trời u ám hiện ra nơi trang sách, bên dưới bầu trời u ám là một con bọ đang ngọ nguậy bò trên nền đất đầy máu. Hãy đốt nó đi. Vua tức giận, hét, vì cho rằng vị thần làng có ý đùa cợt với mình.

Cái cách làm vua cho thiên hạ nể, là đi xâm lấn các nước láng giềng. Tức là vua đi đến đâu thì máu của người dân nước ấy phải chảy thành sông thành suối. Cho đến hôm vị quan hầu cận vua không còn chịu đựng nổi cảnh ngày nào cũng nhìn thấy máu chảy, đã nói với vua rằng, bao giờ thì ông cũng quí trọng vị vua của một nước, còn bây giờ, để không còn phải nhìn thấy cảnh máu chảy nữa, thì ông phải giết kẻ cầm đầu đám quân gây việc máu chảy. Vua bảo là sách thần đã nói về việc ấy rồi, nhưng hồi ấy vua đã hiểu lầm, còn bây giờ thì đã hiểu. Nhà ngươi cứ làm công việc của nhà ngươi đi. Vua nói. Và quan hầu cận vua đã dùng kiếm để cắt đầu vua có vẻ dễ dàng như cắt đầu một con bọ.

( Lời kể của một ông giáo làng )

 

 

Giờ thì ta nói về năm tháng, thứ vật thể chẳng thể nói nó là gì, nhưng chẳng một thứ gì là có thể thoát được nó.

Ta, kẻ đi tìm một nơi chốn không thuộc bất cứ năm tháng nào, ta thấy thế.

Con người là nỗi ám ảnh của những mùa thu vàng nỗi ám ảnh, là niềm lặng im hèn mọn của   những đêm mùa hè hèn mọn, là cơn tham muốn của những đêm mùa đông bão tố, con người là tinh khiết nhất giữa những tinh khiết, và hèn hạ nhất giữa những hèn hạ.

Ta, kẻ đi tìm một nơi chốn không thuộc bất cứ tháng năm nào, ta thấy thế.

Và bây giờ là ta nói về ta.

Dĩ nhiên là ta sẽ rời khỏi ngôi làng này để tiếp tục cuộc tìm kiếm của mình, sau khi đã nhìn thấy   sách thần, gương soi của năm tháng.

Ta tin là ta sẽ được đi trên con đường không còn phân biệt đi với đường đi.

( Bài hát   của một lữ khách lúc ngang qua làng )

 

mười.
một thứ từ vựng tinh tế và kiêu sa. 

Quả tình   mùa thu ở đây vàng một nỗi ám ảnh. Ám ảnh bỡi một thứ quá khứ đã được tinh kết thành thứ từ vựng tinh tế, kiêu sa, và không phải cứ nghe thấy là hiểu. Ám ảnh bỡi một thứ hiện tại được biểu lộ trong một diện mạo có vẻ minh bạch, nhưng không dễ gì cứ trông thấy là hiểu. Đúng là tôi với nàng không dễ gì rời khỏi một nơi chốn như thế. Cái gì cũng có vẻ cuốn hút. Từ việc bà lão lấy tay che ngang mày để ngăn bớt ánh sáng trong lúc nhìn tôi với nàng, và hỏi có phải là lần đầu   chúng tôi đến làng này hay không, cái cách chào hỏi lập tức gợi lên thứ ấn tượng khác thường về một vùng đất. Cho đến cái cách lũ trẻ nít lột hết áo quần, dậm chân một cái, rồi cùng vỗ tay hát về vị thần đã làm ra đất đai và con người của làng mình, lời hát quyến rủ, cách hát cũng quyến rủ… thuở mới được thần sinh ra thì con người không biết xấu hổ…

Tôi và nàng đang đi đò dọc trên sông thì nghe tiếng chiêng tiếng trống. Chưa bao giờ chúng tôi nghe kiểu khua chiêng trống như thế. Người ta đang cúng thần làng của làng, cũng là tổ thần của các vị thần đấy. Ông già lái đò là kẻ am tường các nền văn hóa ở hai bên bờ con sông ấy đã nói với chúng tôi. Bấy giờ là giữa buổi mai. Có nghĩa có đủ thời gian đến được đầu nguồn của sông. Nhưng chính là thứ tiếng chiêng tiếng trống đó đã kéo chúng tôi lên bờ, rồi bị cầm chân ở đó. Nó, tiếng chiêng tiếng trống đó như cách thức nhắc nhở con người, chỉ là khua lên, cốt để làm dấy lên thứ nhận thức về quá khứ, và liền sau đó là lặng đi, cho giống với buổi hồng hoang. Khi tôi với nàng đến đình làng thì chiêng trống đã im. Già trẻ gái trai trong làng là đã tề tựu đông đủ. Đối với người làng, việc tôi với nàng xuất hiện ở đình làng vào lúc đó tựa như hai con người của thế giới man di xuất hiện giữa ánh sáng văn minh, bỡi lẽ là chúng tôi chẳng hiểu biết chút gì về nền văn hóa đương diễn ra ở đó. Hai anh chị hãy đứng vào đây, đứng như thế này này…Người ta nói, như những hướng dẫn viên du lịch trước đám khách nước ngoài, gần như thì thào, chỉ đủ để tôi với nàng nghe, ưu ái và chân tình, bỡi lẽ người ta biết rất rõ là lần đầu chúng tôi đến đó. Quả tình là lần đầu chúng tôi được nghe một văn tế thần vừa tân kỳ vừa cổ kính. Sau đó thì mới biết vị trưởng tế là một viên chức ngoại giao của chính phủ đã nghỉ hưu. Còn lúc đó tôi với nàng vừa chăm chú nghe nội dung của bản văn, vừa thử đoán vị trưởng tế là ai, con người nhìn kỹ thấy chẳng giống chút nào với đám dân làng lam lụ đang vây quanh chúng tôi. Thần là làm ra con người cho nên thần là luôn có trong mỗi ý nghĩ của con người, là luôn cùng với con người đứng về phía bờ bên này. Chúng tôi nghe câu ấy tới hai lần, lúc mở đầu và lúc giữa bài văn tế. Phía bờ bên này là phía nào? Nàng thì thầm vào tai tôi. Nhưng ông cụ đứng bên cạnh đã thúc nhẹ vào người tôi, ra hiệu hãy im. Trước mắt chúng tôi lúc đó là một quang cảnh thuộc thời hiện tại: Một bàn thờ thần chẳng có chi ngoài lư nhang đương cháy và những ngọn đèn đương sáng, một áng văn chương dài lê thê viết về sự tích vị thần của làng cũng là ông tổ của loài người, một vị trưởng tế để lộ hết niềm hân hoan trong lúc xướng đọc tế văn, một bầy người lam lụ của một vùng quê nghèo khó dường như đang tự hào với toàn thế giới rằng kẻ sinh ra loài người vốn là dân làng của mình. Hồi ấy là ông ấy từ làng này ra đi. Ông cụ nhắc nhở chúng tôi chớ chuyện trò lúc đang hành lễ nói với chúng tôi lúc lễ xong. Nhưng chuyện này thì không thấy nói trong văn bản tế thần? Nàng nói. Sự tích về thần có kể suốt năm cũng chẳng hết. Ông cụ nói. Tôi hỏi, như có một nơi nào đó trên đời này cũng bảo vị thần làng của mình là ông tổ của loài người, thì làm sao? Là tổ của loài người thì chỉ có một người. Ông cụ đáp, vẻ dứt khoát, y như rằng quan niệm về vị thần làng của người làng ông là không còn phải bàn cãi gì nữa. Có một ngôi làng trên mặt đất này, nghèo, bỡi con sông chảy qua đây không đủ sức làm tốt đất đai của làng, người ở đây phải đi làm đủ mọi thứ công việc ở các nơi khác mới kiếm đủ cơm ăn áo mặc, chuyện áo cơm là chưa tới đâu hết, nhưng người của làng thì luôn tự hào mình là dân của làng này, và bất kỳ người nào trong làng cũng có thể kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện về vị thần làng của mình. Lúc đầu chúng tôi thấy cũng có vẻ kỳ cục. Có thể có ai đó trong quá khứ nghĩ ra những câu chuyện đó, rồi quá khứ có những câu chuyện đó trở thành thứ từ vựng đầy sức sống, thế thì chẳng phải là ước mơ, là không tưởng, đã hóa thành hiện thực hay sao? Làng ấy nghèo cả củi đun bếp. Dĩ nhiên là không thể có kênh dẫn văn minh chất đốt vào làng. Để làm chín những nồi cháo rau cho đám vật nuôi trong nhà (heo, gà), người ta đã tận dụng rơm rác ở trong vườn. Nồi đun cháo là chiếc vò bằng gốm, được đậy kín nắp, rồi đặt vào một cái ang to, cũng bằng gốm. Sau khi cho rơm rác vào đầy ang, tức đã phủ kín nồi đun, thì bắt đầu đốt lửa. Người của làng này nghĩ ra đó. Khi chúng tôi hỏi ai đã sáng chế ra cách nấu này, thì người nào cũng bảo thế. Người của làng này là thuộc thứ từ vựng tinh tế và kiêu sa.

 

mười một.
một đòn chí mạng. 

     Một người đàn ông nằm trên mặt đất, chắc là đã chết, trước mặt có con bò rừng đứng trong tư thế kỳ lạ, như đang sắp ngã xuống, ruột gan tràn ra bên ngoài, bên sườn có cắm một ngọn lao. Đó là nội dung một phiên bản tranh hang động thời tiền sử treo ở nhà vị trưởng tế. Sau những ngày lang thang trong làng, chúng tôi đã đến nhà vị trưởng tế. Nắng là có đấy, nhưng có vẻ như không còn tồn tại, một thứ sắc màu thâm u đang dồn chặt lại bên dưới một bầu trời buồn và thấp. Khí sắc mùa thu như làm tăng vẻ huyền bí nơi bức cổ họa của thời tiền nhân loại. Phải mất bao nhiêu giây phút thẩn thờ trước bức bích họa, tôi và nàng mới ngồi xuống ghế được. Chẳng hiểu là vị cựu sứ thần cố ý làm ngơ, hay không nhìn thấy chuyện này thật, chúng tôi vừa ngồi là ông bắt đầu nói về ngôi làng của mình. Một nhà nghiên cứu có tâm huyết mấy cũng phải mất cả đời mới hiểu nổi một vùng đất rất cổ bỡi cái gì nói ra nghe cũng thuộc buổi khai thiên lập địa, nhưng cái gì cũng có thể gán cho một ý nghĩa tân kỳ. Phác vẽ xong mấy nét về ngôi làng của mình, vị cựu sứ thần ngồi im để chờ nghe phản ứng của chúng tôi. Có một sự hiểu lầm là ông cứ tưởng chúng tôi đến làng ấy để làm công việc nghiên cứu nào đó. Tôi nói dù chưa hiểu hết ý nghĩa, nhưng những truyền thuyết về lập đất lập làng ở đây đã để lại cho chúng tôi những ấn tượng sâu sắc. Tôi nói thế cốt để ông thấy đó là cảm tưởng của khách tham quan, chứ không phải của người làm công việc nghiên cứu. Nhưng chẳng cần biết cảm tưởng đó là của ai, thứ ấn tượng sâu sắc tôi vừa giới thiệu với ông lập tức được ông nâng lên thành thứ đặc trưng của một vùng đất. Rằng, ông đã đi hầu hết các nước trên thế giới (vị cựu sứ thần của chính phủ đã làm công việc ngoại giao gần ba mươi năm) nhưng chưa có nơi nào để lại trong ông ấn tượng sâu sắc, rằng, lẽ ra sau bao nhiêu năm đi đó đi đây, vào những ngày này ông phải sống ở một thành phố nào đó, nơi có đủ các phương tiện văn minh hiện đại, thì ông lại quay về quê hương nghèo khó của mình, chỉ mỗi điều này cũng đủ nói làng quê ông chẳng phải miền đất bình thường, rằng khi nói vùng đất đó để lại ấn tượng sâu sắc trong ta thì phải hiểu đó là nơi có một bề dày lịch sử. Quả là vị cựu sứ thần của chính phủ cũng không mấy khác những dân làng lam lụ, trong chỗ sâu thẳm của lòng ông cũng tồn tại một niềm tự hào không dễ gì lý giải nổi. Tôi hỏi ông như đã hỏi ông cụ trong lễ tế thần làng, là như có ai đó cũng nói vị thần làng của mình là ông tổ loài người, thì làm sao? Vị cựu sứ thần bảo mọi người đều có thể nói ra quan niệm của mình về sự hình thành thế giới, nhưng chỉ quan niệm nào làm sáng rõ ý nghĩa cuộc tồn sinh của con người thì mới có cơ may còn lưu lại trong ký ức con người. Chẳng hạn như những truyền thuyết về vị thần làng ở đây? Tôi hỏi. Dường vị cựu sứ thần chỉ chờ tôi hỏi câu này. Có nghĩa là chờ các vị khách lạ là chúng tôi chạm vào thứ từ vựng tinh tế mà ông cho rằng chẳng nơi đâu có. Tôi đọc được trong nụ cười ấy niềm khoái trá của một người đã tìm được cái cách nhìn thế giới cho riêng mình. Trước khi bắt đầu bài thuyết giảng về vị thần làng của mình là ông nhìn chúng tôi cười thật cởi mở. Rằng vấn đề ở đây là quá rộng lớn, nên chúng ta có thể đứng ở góc độ nào cũng được, sử   học cũng được, mà nhân chủng học hay khảo cổ học cũng được ( Ông nói thế là đương nhiên coi chúng tôi đồng tình với cách nhìn của ông) Rằng sách thần là một trong những giọng nói đầu tiên của loài người, chẳng những là giọng nói đầu tiên mà còn là giọng nói sáng rõ nhất, ngay tự buổi đầu tiên ấy vị tổ của loài người đã nhìn thấy chỗ hệ trọng nhất của cuộc tồn sinh, nó, cuộc tồn sinh này là một cuộc chiến không ngừng nghỉ. Coi như là chúng tôi không thể tiếp tục ngồi nghe ông nói, bỡi cách nghĩ như thế đối với chúng tôi là không thể chấp nhận được. Hãy nói ra ý kiến của chúng ta thôi. Nàng rỉ tai tôi. Và tôi liền nói. Thưa ông, nếu như cuộc tồn sinh là một cuộc chiến không ngừng nghỉ thì làm sao có một ngày như ngày hôm nay để chúng ta ngồi ở đây luận về nó. Tôi lại đọc được trên vẻ mặt ông vẻ rộng lượng của một người từng trải. Ông bảo rằng cách hiểu của chúng tôi là dễ dẫn tới sự rối rắm, nói cuộc tồn sinh là một cuộc chiến không ngưng nghỉ không có nghĩa là ngày nào cũng nổ súng vào nhau, mà phải hiểu không ngày nào là nhân loại lại quên đi cuộc chiến đấu ấy, rằng ông đã đi khắp thế giới và không thấy có nhân loại ở nơi đâu là không   có quân lính và súng đạn. Tôi nói, để bảo vệ tổ quốc của mình thì đất nước nào cũng phải vũ trang như thế. Vị cựu sứ thần bỗng cười thật to. Và đến lúc này thì ông vừa nói vừa nhìn lên bức tranh trên vách như để tạo nguồn cảm hứng cho mình. Rằng cuộc chiến đấu ấy là bắt đầu tự những năm tháng con người còn là những động vật săn bắt những động vật khác, những năm tháng mà chỉ một phút lơ là thì lập tức bị xóa khỏi mặt đất, rằng âm vang của cuộc chiến đấu để sống còn trong quá khứ là vẫn còn nguyên trong chỗ sâu thẳm của tinh thần nhân loại, không chiến đấu là không tồn tại, rằng cuộc chiến ấy dù được gọi bằng cách gọi hoa mỹ nào của văn minh hiện đại thì vẫn là nó. Như thế lịch sử loài người là lịch sử của cuộc chiến đấu? Tôi hỏi. Cũng có thể nói như thế. Ông đáp. Rồi bảo tôi với nàng hãy nhìn kỹ bức tranh trên vách thì sẽ rõ lịch sử của loài người. Tôi nói, chúng ta sẽ không bao giờ biết đó là một cảnh tượng thật, hay chỉ là một bản anh hùng ca được kể quanh một đống lửa trại. Ông nói, dù đấy là một bản anh hùng ca thì con người tự thời tiền sử cũng đã nhận ra chân lý của cuộc sống là phải chiến đấu để tồn tại. Tôi nói, như thế con người là luôn thù địch với con người. Còn nàng thì bảo như thế lịch sử loài người là lịch sử của sự thù địch. Anh chị đã làm cho sự việc trở nên phức tạp đấy thôi, có khi, từ thù địch dẫn đến cuộc chiến, nhưng có cuộc chiến như   giữa con người tiền sử với con bò rừng   là hoàn toàn không phải do thù địch, chiến đấu để tồn tại và thù địch nhau là hai khái niệm không có quan hệ nhân quả. Ông nói. Nhưng nếu như lịch sử   loài người là lịch sử của cuộc chiến đấu, thì có còn chỗ nào cho tình yêu không? Nàng chợt hỏi. Vị cựu sứ thần bảo đấy là một khái niệm để trang trí cho cuộc tồn sinh. Nhưng thưa ông, là nó có một chỗ đứng nào trong lịch sử con người hay không? Nàng lại hỏi. Ông bảo gần ba mươi năm làm công việc giao hảo với các nước trên thế giới, khái niệm bạn bè hay thân hữu, những chi nhánh của khái niệm tình yêu, đã được ông sử dụng một cách thoái mái, có nghĩa dùng bao nhiêu cũng được, mở rộng đến mấy nhiêu cũng được, chúng ta vẫn mãi mãi là bè bạn của nhau,   hoặc, tình bạn giữa hai nước chúng ta là đời đời bền chặt, có thể nâng khái niệm ấy lên đến chỗ vĩnh hằng, bỡi chẳng tốn kém chi hết, ông bảo rằng ông dùng mãi khái niệm ấy mà không hết, bỡi nó không là gì hết. Tôi nói như thế tình yêu chỉ là một khái niệm trống rỗng. Còn nàng thì hỏi, có phải cuộc tồn sinh này là đặt nền tảng trên máu và gươm như sách thần làng này đã nói hay không? Nhưng anh chị là đang nghiên cứu về lĩnh vực nào? Mãi đến lúc này vị cựu sứ thần mới hỏi lý do chúng tôi có mặt ở làng ấy. Tôi nói là tôi với nàng đang đi đò dọc trên sông, thấy lễ tế thần của làng rất lạ, nên dừng lại xem cho biết. Có nghĩa anh chị là khách   du lịch? Thưa không, là đang đi tìm con nước đầu nguồn của một con sông. Tôi nói. Ông bảo là ông vẫn chưa hiểu. Tôi phải nói thật là chúng tôi đang yêu nhau, và muốn nhìn thấy con nước đầu nguồn của con sông chảy qua quê nàng. Tức anh chị là những nhà khảo sát địa chất? Tôi nói không phải, mà là đang thử làm một thể nghiệm về tình yêu. Lần này thì chúng tôi nhận ra rất rõ, trong giọng nói của ông, không chút cao ngạo, mỉa mai, mà rõ ràng là ý nghĩ rất rõ của một người tự coi mình là biết rõ nhất về chuyện trần gian. Tình yêu chỉ là thứ tiếng nói cốt làm phong phú cuộc sống của con người, nhưng có người lại tưởng đó là chuyện thật, cho nên đi thể nghiệm về tình yêu là lao vào một cuộc đối thoại với hư không. Ông nói. Với những ai khác thì quan niệm thế chẳng chết ai. Nhưng với tôi và nàng thì khác. Cái buổi chiều thu hôm ấy có thể nói là buổi chiều buồn bã nhất trong đời tôi và nàng. Chúng tôi ra bờ sông, không mong gì gặp được đò. Và như   trời đất xui khiến ông lão lái đò ấy đến cứu vớt chúng tôi. Cho chúng tôi đi với. Chỉ mỗi tôi là còn gọi nổi. Tôi còn ráng bước được. Nhưng nàng thì phải nhờ ông lão dìu xuống đò. Biết chúng tôi muốn tiếp tục cuộc hành trình đã bỏ dở, ông lão có vẻ ái ngại. Anh chị bị bệnh thế này thì làm sao đi? Ông hỏi. Làm sao chúng tôi có thể nói cho ông hiểu rằng cái quan niệm về tình yêu của vị cựu sứ thần là một đòn chí mạng đối với tôi và nàng.

 

mười hai.
cuộc trò chuyện với hư không.  

     Tôi nói đấy là cuộc trò chuyện với hư không. Nhưng nàng bảo không phải. Bấy giờ em vẫn biết mình đang nằm trên thuyền, biết là chúng ta đã rời khỏi ngôi làng của vị cựu sứ thần, và đã xuống thuyền của ông lão ấy. Nàng nói. Tôi hỏi, như thế lúc nàng chuyện trò với ai đó, thì không phải là đang trong cơn mê sảng. Nàng bảo cũng không phải. Em vẫn biết là mình đang nghe tiếng nước vỗ mạn thuyền, nghe tiếng của anh, tiếng ông lão lái đò, và tiếng của ba người đàn ông đã có mặt trên thuyền trước chúng ta. Nàng nói. Tất nhiên là nàng đã không chết trên thuyền, như ba người đàn ông ấy bảo, mới có thể ngồi trò chuyện với tôi ở ngôi làng ấy. Tôi nói là lúc ấy thì mấy người đàn ông ấy sợ nàng chết trên thuyền, cứ một hai đòi ông lão đưa nàng lên bờ. Nàng nói là lúc bấy giờ nàng chỉ nghe tiếng những người ở chung quanh, còn nghe nói gì thì nàng không nhớ, vì bấy giờ là nàng đang lao vào cuộc tranh cãi với ai đó mà nàng không còn   nhớ nổi gương mặt của kẻ đó. Đây là thời đại mà người ta nói về cái gọi là sự thật nhiều hơn bất cứ thời đại nào. Đấy là câu mà anh nghe em lập đi lập lại trong suốt cuộc chuyện trò với hư không. Tôi nói. Nàng bảo là nàng cũng chẳng nhớ. Tôi nói, lúc đầu thì có vẻ đó là cuộc chuyện trò với vị cựu sứ thần ở ngôi làng ấy.

 

Hãy nói cho tôi nghe là ngài căn cứ vào đâu để bảo đó là sự thật? Một văn bản bằng giấy ư? Hay một văn bản bằng đá? Mà chép trên giấy, hay trên đá, thì đều là ngôn ngữ của con người, ai dám bảo với ngài rằng ngôn ngữ ấy là thuật lại đúng sự kiện ấy, xin ngài hãy nhớ cho, khi ngài tham gia vào việc nói về sự kiện đó thì nó không còn là nó, mà sẽ hiện ra theo cái cách của ngài nói về nó.

 

Có phải là em tranh cãi với vị cựu sứ thần, và lúc lặng đi là lúc em lắng nghe ông nói? Tôi hỏi. Nàng bảo không phải là tranh cãi với ông ấy. Rồi hỏi tôi sau đó thì nàng nói những gì. Tôi nói sau đó thì dường như là trò chuyện với dòng sông.

 

 

Ai đã để lại cho người những tháng năm mệt lã, tôi, hay là những con người có đôi mắt màu nước phù sa, ai đã để những giọt nước mắt rơi trên thân thể người, những giọt nước mắt tàn úa, ai đã để rơi những giọt nước mắt ấy, tôi, hay là những con người từ thuở sinh ra chỉ thấy một màu khô buồn trong mắt, mà sao người lại im lặng suốt bấy nhiêu thiên niên kỷ, rồi bỗng hiện ra giữa một miền đau khổ?

 

Có phải là em trò chuyện với một dòng sông nào đó hay không? Tôi hỏi. Nàng bảo là không phải. Tôi nói sau đó thì nàng đã trò chuyện với tôi, nhưng thật ra thì không phải là trò chuyện với tôi. Nàng bảo mình chẳng hề nhớ chuyện này. Bấy giờ thì em hỏi đây là đâu? Tôi nói. Nàng ngẫm nghĩ một lúc. Em cầm tay anh, và hỏi thế? Phải, em hỏi đây là nơi đâu, rồi bắt đầu nói, mới đầu tưởng là nói với anh.

 

Chúng ta sẽ đến một nơi không có sự lẫn lộn giữa văn minh và man rợ, không còn nghe ai nói đến chuyện sự thật với không sự thật, nơi tiếng nói không còn là của riêng của con người, để chống lại sự tàn rữa, vào những buổi sớm mai, không phải chỉ có chim rừng, mà đá núi cũng cất tiếng hát mừng ánh mặt trời, để chống lại sự độc đoán hay toàn trị, mà độc đoán với toàn trị là cha đẻ của tàn rữa, vào những ngày mùa đông hoa lá cũng có quyền kêu ca về sự bất nhẫn của gió mưa, để cho linh hồn thế giới luôn đầy đặn thì hòn đất cũng biết nói năng, cây trên rừng cũng biết cất tiếng ngợi ca trí tuệ của những vì sao.

 

Là em đã nói về phía bên kia ? Tôi hỏi. Hình như là thế. Nàng nói. Tôi nói, dù nói đằng nào thì đấy cũng chỉ là cuộc chuyện trò với những khái niệm trừu tượng, khái niệm về sự thật, khái niệm về dòng sông cuộc sống, khái niệm về một miền không có đâu… Thì anh đã bảo em trò chuyện với hư không rồi còn gì. Nàng nói. Và chúng tôi lại vui vẻ nhìn nhau cười. Có phải là con người ta trở nên mạnh mẽ khi đã bị cuộc đời tặng cho một đòn chí mạng? Tôi hỏi. Nàng bảo nàng vẫn chưa tin là đã nói ra được những điều như thế. Nhưng có một điều buộc nàng và tôi phải ráng tin, như những người làng ấy đã tin. Ông lão lái đò đã cho chúng tôi cỡi lưng cọp. Quả tình lúc bấy giờ ông rất sợ nàng chết trên con đò của mình. Nhưng với ba người đàn ông thì khác. Theo lời ông lão, bọn họ đi mua tre trên thượng nguồn, nhưng theo tôi thì họ đi đốn gỗ trộm. Sợ chúng tôi đến thượng nguồn sẽ biết sự thật này, nên bọn họ đã hối ông lão đem gửi chúng tôi ở làng ấy. Bao nhiêu năm đi đò dọc, những làng xóm hai bên bờ con sông đều là chỗ thân thiết với ông lão. Hai nhà báo của chính phủ đi đò tới nơi này thì bị bệnh. Ông đã nói như thế với người làng ấy, nơi đang xảy ra bao thứ chuyện. Để đối phó với những cuộc phỏng vấn của dân làng, tôi với nàng cũng đã phải   ráng tin mình là nhà báo thật. 

 

mười ba.
gia phả bằng đất. 

     Cái gò hoang rộng thênh thang nằm giữa đồng làng vẫn cứ là gò hoang trong bao niên kỷ. Người ta không thể nào xóa bỏ nó ( hoặc là làm đất gieo trồng, hoặc là làm đất xây nhà) bỡi xóa bỏ nó là xóa bỏ tổ tiên. Dân làng không đông, nhưng có đến mấy chục cánh họ, mỗi cánh họ thì sở hữu một sự tích về tổ tiên mình, tức sự tích về những kẻ đã yên nghỉ ở cái gò hoang ấy, có kẻ yên nghỉ vài ba trăm năm trước, có kẻ yên nghỉ cả nghìn năm trước. Có nghĩa hiện tại gò là gò hoang, tức chẳng còn trông thấy mồ mả chi nữa.

Ông già hậu duệ của một cánh họ nói với chúng tôi rằng ông tổ mấy chục đời dòng họ nhà ông muốn qua sông thì cứ ngửa nón ra ở trên mặt nước mà làm sõng, muốn bắt lũ cô hồn thì chỉ cần phồng má lên, hét một tiếng, là lũ chúng phải chường mặt ra. Tức là thầy phù thủy? Tôi hỏi. Không phải, là pháp sư. Ông không chịu gọi là phù thủy. Đánh nhau mãi với lũ ma quỉ, sức mòn dần, rồi chết. Ông nói. Gia phả có ghi rõ là chết chôn ở cái gò hoang? Ông già có vẻ ngơ ngác khi nghe nàng hỏi đến chuyện gia phả. Về sau chúng tôi mới biết ở làng ấy chẳng có nhà nào có gia phả. Tất cả những chuyện về tổ tiên đều là truyền miệng.

Có một cánh họ là hậu duệ của một vị anh hùng hảo hán. Ông Hai Mươi. Ông chết chôn ở cái gò hoang ấy, nên cái gò ấy còn gọi là gò Ông Hai Mươi. Đã làm những gì để được gọi là anh hùng hảo hán? Tiêu diệt toàn bộ đám cọp trên dải núi phía nam làng. Lần này là một bà lão mù, con cháu mấy chục đời vị anh hùng hảo hán, kể cho chúng tôi nghe sự tích này. Thuở ấy cọp ở núi ấy nhiều lắm, hầu như đêm nào cũng xuống làng bắt người. Ở trong làng có một người giỏi võ nghệ, được tổ tiên truyền cho thế võ cỡi lưng cọp, đã lãnh việc vào núi diệt cọp. Một ngày ít nhất là ông leo lên lưng cọp một lần. Mà đã leo lên lưng cọp rồi, thì coi như con cọp ấy   phải chết. Cuối cùng là ông đã giết hết cọp trên núi. Theo lời bà lão thì bà đã bị mù trong bụng mẹ, tức chỉ tiếp nhận thế giới bằng tai. Nên chúng tôi biết chắc là bà lão đã kể đúng những gì cha ông bà truyền lại. Cuối cùng là vị anh hùng hảo hán đã bỏ thây trên núi. Có tên là ông Hai Mươi vì cuối cùng người ta chỉ tìm được hai mươi mảnh xương của ông đem về chôn ở cái gò hoang ấy.

Nằm yên nghỉ nơi gò hoang ấy còn có một vị vua ngu. Một hậu duệ của vị vua ấy có vẻ ái ngại khi biết chúng tôi tò mò muốn biết sao lại gọi vua ngu. Nói chuyện cây cỏ thì tôi rành hơn là chuyện đời xưa. Ông thầy hốt thuốc nam, hậu duệ của vị vua ngu, có ý từ chối khéo. Nhưng khi bà vợ ông chỉ xen vào một câu rằng mong các nhà báo lên tiếng giúp về chuyện người ta sắp phá bỏ cái gò hoang, thì ông lập tức trút bỏ thái độ e dè, bắt đầu kể cho chúng tôi nghe về những khác thường của tổ tiên mình. Lời truyền tổ phụ nhà ấy làm nghề thuốc nam thì chẳng còn nghi ngờ gì nữa, bỡi mào đầu một bài thuốc gia truyền là câu tổ phụ ta đang làm công việc lấy cỏ cây của trời đất để chữa bệnh cho người thì bỗng có lệnh đi chữa bệnh cho con vua. Lời truyền tổ phụ nhà ấy từng làm vua cũng không phải nghi ngờ gì nữa, bỡi bên dưới một bài thuốc gia truyền có chú rằng đây là bài thuốc tổ phụ nhà ta đã chữa cho con gái vua khỏi bệnh, và đã được truyền ngôi vua.   Ông thầy thuốc nam, hậu duệ vị vua ngu, chỉ   nói cho chúng tôi biết có một vị vua như thế đã yên nghỉ nơi gò hoang ấy, còn tại sao gọi vua ngu là do người làng giải thích. Làm vua được mấy hôm thì chợt nhớ là chưa truyền cho con cháu những bài thuốc bí truyền, bèn bỏ ngai vàng, trở về quê, tiếp tục việc làm thuốc, nên người đời kẻ cho là khác thường, kẻ bảo là ngu, một ông vua ngu.

Kỳ quặt nhất là chuyện rước Phật. Vì thấy người làng cơ cực quá, ông tổ bốn mươi chín đời nhà ấy đã bứt ra đi tìm Phật. Mấy năm sau có vị khách lạ đến làng xưng là Phật sống, muốn giúp cho dân làng thoát khổ nghèo theo yêu cầu của một người vốn là dân làng ấy. Thấy vị khách mặc áo nâu sồng, chân không dép guốc, lại tả hình dạng người mình gặp là hình dạng của ông tổ bốn chín đời nhà ấy, nên dân làng tin là Phật sống thật, dù vị Phật ấy lại có râu. Cái gò hoang giữa đồng làng là nơi vị Phật sống giảng cho dân làng hiểu đời là biển khổ. Mưa nắng vẫn cứ tiếp tục nối nhau. Và dân làng vẫn vừa cày ruộng vừa nghe Phật thuyết giảng. Cho đến lúc mọi người đều thấu hiểu lẽ vi diệu của Phật pháp, thì cuộc sống   vẫn cứ còn cơ cực. Hết thảy nỗi khổ của thế gian này hãy để cho mỗi mình ta gánh chịu. Một hôm vị Phật sống đã tuyên bố như thế. Và cùng làm lụng với mọi người. Rồi cũng đến ngày Phật phải ra đi. Trong lúc dân làng đang chờ đợi   một điều kỳ diệu nào đó sẽ xảy ra trong giờ phút viên tịch của Phật, thì cũng là lúc người ta phát hiện ra rằng vị Phật sống và kẻ đi tìm Phật là một. Là do khi khâm liệm Phật, bộ râu kia đã rời khỏi khuôn mặt người chết, nên người ta mới biết đó là ông tổ bốn mươi chín đời của nhà đó.

Cái gò hoang đó không phải là cái gò bình thường, mà là gò Phật, gò Vua… nơi yên nghỉ của những con người nếu muốn nói là khác thường hay phi thường cũng được. Khi kể ra những sự tích đó là người làng muốn nói với chúng tôi, mà họ vẫn đinh ninh là những nhà báo của chính phủ, rằng cái gò hoang là bản gia phả chung của các dòng họ trong làng, rằng những thế kỷ đã trôi qua, các dòng họ đó vẫn giữ gìn bản gia phả đó như giữ gìn dòng máu tộc họ của mình. 

 

mười bốn.
trên lưng cọp. 

     Cách nhìn thế giới của ông lão lái đò đã làm cho tôi với nàng lâm vào tình cảnh khốn đốn. Đang đi đò trên sông, thấy có hội tế thần làng thì ghé vào, xong lại xuống đò đi tiếp, như thế là nhà báo. Và ông lại còn thêm vào cái tiêu chuẩn chính phủ, những nhà báo của chính phủ, khiến chúng tôi càng khốn đốn hơn. Nhưng cũng có thể là ông lão muốn chúng tôi là những nhà báo thật để giúp cho đám dân làng thân thiết với ông bằng cách chuyển những điều họ suy nghĩ tới tai chính phủ. Rồi cũng có thể là ông muốn nói với người đời rằng, ông ngược xuôi sông nước không phải chỉ để chở những kẻ bình thường là những khách thương buôn thượng, những kẻ đi đãi vàng, đi hái trái rừng, hay đi đốn gỗ trộm, mà còn chở cả những con người do chính phủ phái đi công cán.

Khi ông lão đưa chúng tôi đến ngôi làng đó thì cuộc chiến giữa những chủ   nhân của dự án làm giàu đất nước và những chủ nhân của bản gia phả bằng đất vừa tạm lắng. Và đám người làng ấy mặc nhiên xem sự xuất hiện của tôi với nàng như là những đồng minh được ông lão lái đò cử đến để hổ trợ bọn họ trong các cuộc quyết đấu sắp tới. Quả tình là nếu như cái xã hội người yên nghỉ ở bên dưới mặt đất gò hoang ấy mà tái xuất trần gian thì nhất định phần thắng là thuộc về phe đám người làng. Các nhà nghiên cứu khoa học kỷ thuật và kinh tế, những tác gỉa của dự án ấy có nghĩa lý gì trước một con người cả đời chuyên đánh nhau với ma quỉ, hay trước một người đã từng làm vua, tức từng làm công việc cai quản đất nước. Người ta thi nhau kể cho tôi với nàng nghe những kỳ vĩ của tổ tiên là để cho chúng tôi thấy trước phần chiến thắng của họ. Các anh chị đứng về phía nào, phía nhân dân, hay phía các vị đó? Đấy là câu hỏi đã làm tôi với nàng vô cùng khốn đốn. Không biết bao nhiêu cuộc phỏng vấn đã xảy ra, ngay khi ông lão lái đò vừa giới thiệu chúng tôi là các nhà báo của chính phủ, và nàng thì vừa mới tụt xuống khỏi vai ông, nhoài lên chiếc chõng tre ở ngôi nhà đó. Rất nhiều câu hỏi người làng đã đặt ra với chúng tôi, nhưng chỉ có câu hỏi ấy là làm cho chúng tôi mất ăn mất ngủ. Đứng về phía các vị đó có nghĩa cho rằng việc xây dựng cái nhà máy công nghiệp trên khu   gò hoang là hợp lý, mà cũng có nghĩa là coi như không có cái bản gia phả bằng đất ấy. Còn đứng về phía dân làng là đồng nghĩa với việc cùng với dân làng ấy chống lại việc xây cất nhà máy công nghiệp trên cái gò hoang ấy, mà như thế là cũng đồng nghĩa với chống lại nhà nước. Đang bước đi trên con đường hướng tới mục đích cao cả nhất nhân gian thì chúng tôi lại rơi vào tình cảnh trên lưng cọp. Nhưng trên lưng cọp thì tương lai có vẻ còn rõ ràng hơn : hoặc là thoát thân được, hoặc là chết. Đằng này, vì giữ uy tín cho ông lão lái đò, chúng tôi cứ nín thinh khi nghe ông giới thiệu mình là nhà báo, ngay từ đầu người làng đã coi chúng tôi là nhà báo, thì đến lúc lâm nguy có nói ra sự thật để ra đi, người ta cũng không tin, mà còn cho là hèn nhát, những nhà báo hèn nhát. Thoát thân không được, mà chết cũng không được (Theo chỗ chúng tôi biết thì chưa có nhà báo nào trên thế giới chết vì không trả lời được phỏng vấn) Tương lai của chúng tôi lúc bấy giờ là vô cùng mờ mịt. Mà câu chuyện cuộc sống ở ngôi làng ấy thì cũng dễ mô tả thôi. Nói chung là cuộc sống quá cơ cực. Người ta đã thấy sự cơ cực này tự thời xa xưa qua các câu chuyện kể về tổ tiên của họ. Cơ cực vì thiên nhiên đã dành cho những điều kiện không thuận lợi. Là đất trung du, kề cận với núi, cằn, không có điều kiện tự nhiên để tạo nguồn nước tưới, tất cả các thứ cây trồng đều cho sản phẩm quá ít. Một dự án làm giàu đất nước được đem ra thực hiện ở đây. Cánh đồng làng cằn cỗi là nằm trong vùng cây nguyên liệu giấy. Còn nhà máy làm giấy thì xây trên cái gò hoang từ lâu vẫn bỏ hoang. Dự án lập tức bị dân làng phản đối, vì xây nhà máy trên cái gò hoang ấy là xây trên mồ mả tổ tiên của họ. Thường, muốn xây dựng một cái gì đó trên một nghĩa địa nào đó, thì trước hết phải di dời xương cốt người chết đi nơi khác. Nhưng ở cái gò hoang này thì biết xương cốt nằm ở những vị trí nào mà nói chuyện di dời? Cuộc va chạm đã xảy ra giữa dân làng và những người thực hiện dự án. Mới đầu là chỉ bằng lời. Mà cãi lý với nhau thì thật khó phân thắng bại. Những người thực hiện dự án phải làm công việc khảo sát khu gò hoang. Còn dân làng thì không cho. Cụ thể là thế này: Khi xe ũi đất đến làm mặt bằng cho nhà máy, tất cả dân làng ấy đã đến nằm sắp hàng trên cái bản gia phả bằng đất ấy. Nói cuộc chiến tạm lắng, vì đã là dự án làm giàu đất nước thì không phải là dừng lại ở công đoạn ấy. Có nghĩa, sắp tới là không thể không xảy ra một cuộc quyết đấu mới. Tôi thì sốt ruột làm sao thoát khỏi ngôi làng ấy càng sớm càng hay. Nhưng nàng cứ muốn chờ đến lúc nổ ra cuộc quyết đấu mới. Thế nào mấy ông nhà báo thật cũng đến, em muốn xem thử là họ đứng về phía nào? Nàng nói. Tôi nói là cũng chẳng biết một nhà báo thật thì có quyền im lặng trước một sự việc phức tạp như thế hay không. Nàng nói có quyền hay không có quyền là chuyện của các vị nhà báo thật, còn tôi với nàng là nhà báo giả, thì im lặng là quyền của chúng tôi. Phải nói là trong cuộc gian nan này nàng tỏ ra khí phách hơn tôi. Tôi thầm bảo là mình yêu nàng xiết bao. Chỉ có cuộc nghị hòa, chứ chưa xảy ra quyết đấu. Đấy là vào một đêm đầu tháng, trăng non chênh chếch nơi phía trời tây. Tôi và nàng cùng với người làng đi dự hội nghị. Từ khi có ý đồ thoát khỏi làng, lúc nào chúng tôi cũng kè kè túi vải cá nhân ở bên mình, để chờ có dịp là thoát ngay (Mà như thế cũng là đúng phong độ của một nhà báo) Tôi vừa bước, vừa nắn tay lên đôi dép đang nằm trong túi vải cá nhân, vừa thầm nói với nó, rằng nhà ngươi hãy rán gíup ta sớm cao bay xa chạy khỏi nơi này. Từ lúc nhập vô ngôi làng này, tôi với nàng cũng đã trở thành những công dân chân đất. Chỉ lúc đi xa, như lên tỉnh lên huyện, mới mang giày dép, còn ra ruộng, đi chợ làng, hay lẩn quẩn ở trong nhà ở trong làng, thì người trong làng có thói quen đi chân đất. Mới có mấy hôm mà tôi với nàng cũng cảm thấy gò bó nếu bước đi mà dưới chân có giày dép. Hội nghị diễn ra ở cái gò hoang vừa xảy ra sóng gió. Nhưng đêm ấy chắc là nhờ có ánh trăng đầu tháng có vẻ lạnh lẽo, và khí mát cuối thu, mở đầu hội nghị có vẻ rất hòa bình. Cũng là các vị chủ nhân dự án nhà máy công nghiệp ấy, nhưng đêm hôm ấy không còn đóng vai chủ nhân dự án, mà là đại diện cho nhà nước cùng với dân làng bàn chuyện làm giàu đất nước. Những công dân chân đất ở ngôi làng ấy quả cũng dễ mủi lòng khi có sự thay đổi trong cách nói năng. Tưởng chuyện chi, chứ bàn chuyện làm giàu đất nước, thì làng này ủng hộ cả hai tay. Lĩnh xướng cho dân làng là một người đàn ông có giọng nói hơi to. Nói xong câu này, ông đưa cả hai bàn tay lên huơ trong ánh trăng. Một đợt sóng trò chuyện liền nổi lên trong đám dân làng. Chắc là không còn xảy quyết đấu. Nàng rỉ tai tôi, khi thấy không khí nghị hòa có vẻ thuận lợi. Tôi liền huých thật mạnh vào vai nàng, có ý bảo chớ nghĩ đến điều chẳng lành nữa. Chắc là ngán cảnh quyết đấu, vị đại diện nhà nước khai mào hội nghị không dám nhảy vô mục tiêu của nghị hòa là thuyết phục cho bằng được dân làng trong việc xây dựng nhà máy trên cái gò hoang ấy, mà cứ quanh đi quẩn lại chuyện làm giàu đất nước, rằng trong xu thế văn minh thế giới, chúng ta cũng phải làm mọi cách để biến một đất nước nông nghiệp lạc hậu thành một đất nước công nghiệp tiên tiến, rằng … Chắc là dẹp rồi. Tôi nghe có ai đó trong đám dân làng nói. Hội nghị là trong không khí dân chủ. Cả dân làng lẫn những người đại diện nhà nước đều ngồi để nói. Cái không khí dân chủ có hơi thay đổi một chút, là có mấy người đứng dậy ngồi xuống khi nghe ai đó nói chắc là dẹp rồi. Không dám để cho sự hiểu lầm kéo dài, một vị đại diện nhà nước lập tức nối lời vị kia, rằng để trở thành một nước tiên tiến, kịp đà văn minh thế giới, thì phải gấp rúc xây dựng các công trình công nghiệp, ví dụ ở làng này là xây nhà máy sản xuất   giấy. Không khí dân chủ lại có sự thay đổi nữa, vì có nhiều người đứng lên, mạnh ai nấy nói, nhỏ tiếng có, to tiếng có, tựu trung là hỏi nhà nước có còn chủ trương xây cái nhà máy ấy trên khu nghĩa địa này không? Các vị đại diện nhà nước bắt đầu thay nhau nói, rằng cái gò hoang không phải là nghĩa địa, nghĩa địa chi lại không có mồ mả, mà chỉ là nghe kể lại rằng tổ tiên của dân làng đã chôn ở đó, nên việc yên nghỉ đó cũng chỉ là khái niệm, cũng như nói cái gò đó là gia phả chung của các dòng họ thì cũng là khái niệm, nói gọn lại, dẫu cái gò hoang đó không còn thì những khái niệm kia vẫn còn. Nhưng về chỗ này thì đám dân làng không dễ gì mủi lòng để các vị đại diện nhà nước biến mồ mả tổ tiên thành những khái niệm, mà theo họ là thành những lời gió bay. Tưởng sao chứ thế thì ở đây không cần thứ văn minh ấy! Người đàn ông có giọng nói hơi to lại lĩnh xướng. Không khí dân chủ là hoàn toàn bị bãi bỏ. Có nghĩa chẳng còn ai ngồi để nói, cũng như chẳng còn ai ngồi để nghe. Phải biến khỏi đây trước khi xảy ra sự việc. Nàng rỉ tai tôi. Và tôi bỗng nghe bủn rủn tay chân. Không phải là sợ xảy quyết đấu. Thứ sự việc mà cả tôi lẫn nàng đều lo sợ xảy ra là dân làng sẽ xin các nhà báo chính phủ cho biết ý kiến về ý kiến của các đại diện nhà nước. Tôi quýnh quáng kéo nàng tránh ra xa đám dân làng đang chen về phía trước, tức chen về phía các vị đại diện nhà nước. Bấy giờ mà người ta lên tiếng bảo cho ý kiến, chắc chúng tôi phải chết. Có lẽ các vị thánh thần ở vùng đất này thấu hiểu lòng trong trắng của chúng tôi nên đã ám đầu óc đám dân làng không còn nhớ đến hai anh chị nhà báo của chính phủ. Nhưng phải nói là nhờ mấy đám mây đen chợt ùn ùn kéo tới trên bầu trời trên đầu đám người hội nghị, và rớt hột ngay. Tất nhiên là mọi thứ trên đời phải gác lại để lo chạy tránh mưa.

 

mười lăm.
những người trong cổ tích 

     Như vậy là cuộc đời vẫn dành cho tôi với nàng một con đường sống. Chúng tôi băng ra phía đồng làng mà chạy. Mọi người chạy đi tránh mưa nên là chạy trở vô làng. Chỉ tôi với nàng chạy trốn người làng nên mới chạy trong mưa. Mưa vuốt mắt không kịp. Phải vừa chạy vừa vuốt mắt mới thấy đường chạy. Cho nên tôi với nàng yên trí là người ta lo chạy mưa, chẳng còn ai nghĩ tới mình nữa. Mà như mưa cũng chỉ đủ để giải cứu chúng tôi. Khi tôi và nàng chạy tới giữa đồng làng thì trời tạnh hẳn. Trăng non đầu tháng lại tiếp tục soi xuống nhân gian thứ ánh sáng lạnh lẽo. Chúng tôi ôm nhau rất chặt, và hôn nhau, như để ăn mừng là đã thoát được tai ương do chính mình gây ra. Thì chẳng phải từ ban đầu chúng tôi đã im lặng để cho người ta coi mình là nhà báo của chính phủ đấy sao? Nếu không có cơn mưa này, cũng chẳng biết là chuyện gì sẽ xảy ra với anh và em. Nàng nói, như để nâng tầm nghiêm trọng của những thời khắc vừa mới trôi qua. Khi không còn im lặng được nữa, có thể chúng tôi phải nói ra ý kiến ủng hộ việc xây cái nhà máy giấy trên gò hoang mấy chục hắc ta đó, bỡi không thể để một vùng hoang hóa như vậy nằm giữa một vùng cây công nghiệp. Và thế là, có thể chúng tôi sẽ bị dân làng dần cho một trận nên thân (tức bị đánh đấm bằng tay chân), nếu không thì cũng bị mạt sát, nguyền rủa một cách thậm tệ. Cũng có thể là chúng tôi đứng về phía dân làng để bảo vệ bản gia phả bằng đất đó. Trong trường hợp này thì các vị đại diện nhà nước sẽ hỏi chúng tôi làm ở tờ báo nào, và tất nhiên là tôi với nàng sẽ lộ bộ mặt thật của mình ra, và rất có thể là chúng tôi sẽ bị tố cáo về tội giả làm nhà báo. Quả là tai ương, nếu không có cơn mưa bất chợt làm tan rã cuộc hội họp đó. Một cuộc ngẫu nhiên vĩ đại. Nàng xúc động bảo tôi. Còn tôi thì dùng hết cả mười ngón tay mà làm lượt chải để giũ cho sạch hết nước trên mái tóc nàng. Cả tôi lẫn nàng đều ướt như chuột lột. Nhưng chúng tôi muốn giữ nguyên quần áo ướt trên người như thể để bày tỏ sự chịu ơn trời đất đã ban cho cơn mưa quí. Nói đấy là đồng ruộng thì không phải. Người ta gặt lúa từ hồi nào chẳng biết, thấy còn có gốc rạ, nhưng đã bị cỏ dại phủ kín. Cũng chẳng biết vì thiếu nước tưới nên ruộng đồng hoang hóa, hay vì đang chuẩn bị cho việc công nghiệp hóa nên không còn gieo trồng các loại cây nông nghiệp. Sau cơn mưa bất chợt, ánh trăng đầu tháng như có vẻ lạnh lẽo hơn. Chúng tôi vừa bước đi trên ruộng đồng hoang hóa vừa hít thở thứ không khí có mùi cỏ ướt lẫn với mùi mưa đêm. Nhờ có trăng non đầu tháng, tôi với nàng mới khỏi lạc bước giữa đồng không mông quạnh. Lúc trời đổ mưa, cứ dắt nhau mà chạy ra đồng làng, cốt để tránh đám dân làng, chẳng rõ là mình chạy theo hướng nào. Đến lúc đó mới biết là chúng tôi đang hướng về phía hạ nguồn, tức là bỏ lại trăng non đầu tháng ở sau lưng. Đến lúc đó thì ngôi làng ấy cũng đã nằm lại ở phía sau khá xa. Có lẽ là mọi người trong làng đã về đến nhà. Chúng tôi thấy những ánh đèn nhà lần lượt sáng lên, rồi lần lượt tắt đi. Và làng xóm lại chìm vào màu đen của đêm. Cũng có thể là dân làng sẽ đi tìm anh và em. Nàng nói, có vẻ lo lắng. Tôi bảo là nội trong đêm thì tôi và nàng đã đi rất xa, cứ theo hướng đó mà đi, bỏ hẳn việc đi tìm con nước đầu nguồn nhánh sông đó, và mọi chuyện sẽ rơi vào quên lãng. Mà như không có trăng thì lúc đó chúng tôi cũng định được hướng đi. Cánh đồng làng là trải dọc dài theo dãy núi ở phía nam mà chúng tôi đã nhìn thấy từ hôm mới đến ngôi làng ấy. Núi thì ẩn hiện trong ánh trăng màu sáng nhạt. Còn đồng cỏ thì như giải lụa bạc bập bềnh giữa mùi đêm đồng nội. Tất cả là thật. Nhưng mới từ cảnh đời tai ương luôn rình rập nhảy sang cảnh đời như chẳng vướng chút lo âu, chúng tôi cứ tưởng là không thật. Anh với em là đang bước đi trong cổ tích? Nàng xúc động nói, và nắm lấy bàn tay tôi rất chặt. Có ta nữa mới thành cổ tích. Tôi chưa kịp nói gì với nàng thì có tiếng ai cất lên ở đâu đó. Lần này là tôi phải tỏ ra khí phách hơn nàng. Muốn nói gì cứ gặp nhau mà nói. Tôi nói, cố giữ giọng tự nhiên, và vẫn cùng nàng bước đi. Phải dừng lại để coi thử chuyện gì xảy ra thôi anh. Nàng thì thầm, và kéo tôi đứng lại. Tôi có cảm tưởng như mặt đất hơi chao đảo   khi trông thấy có ai đó đang tiến về phía mình. Là kẻ cướp thì chẳng đời nào thèm đặt chân đến một vùng quê nghèo nàn. Còn người làng đi tìm chúng tôi là phải đôi ba người, chứ không thể là một người.

 

Ta là thần của cánh đồng này đến trò chuyện cùng các người đây.

 

Trong lúc tôi còn nghĩ ngợi thì nghe thấy giọng nói của một người già. Bấy giờ trăng đầu tháng sắp lặn, nhưng vẫn còn đủ sáng để chúng tôi nhìn thấy kẻ đang đứng trước mặt mình là một ông lão. Nàng thì cứ bám chặt lấy tôi. Còn tôi thì lúng túng chẳng biết phải bắt đầu bằng những lời lẽ thế nào, khi vẫn còn hồ nghi có quả đúng đó là thần đồng làng hay không. Dường ông lão, tức vị thần của đồng làng, biết rõ tâm trạng chúng tôi, bỗng cười thật to.

 

Người ta vẫn gọi ta là thần nông, hết thảy mọi người trên mặt đất này đều gọi thế, nhưng đấy là chuyện ngày xưa.

 

Ông nói, như để cho cả thế gian thấy sự tồn tại của mình là thật. Như không kìm giữ được niềm vui sướng vì lại gặp điều may nữa, nàng kéo tôi sụp xuống để tạ ơn trời đất. Nhưng thần đồng làng đã vội ngăn, bảo đấy cũng là việc của ngày xưa, khi con người là còn quá cách xa với thần thánh. Như vậy là không khí dân chủ lại diễn ra ở giữa cánh đồng ấy. Có nghĩa cả thần lẫn người đều ngồi ở trên cỏ mà nói. Tôi nói là tôi với nàng đang đi tìm con nước đầu nguồn của một dòng sông thì lạc bước đến nơi này. Thần đồng làng nói việc lạc bước là hay xảy ra trong xã hội con người. Nhưng có phải là thần đang cảm thấy cô đơn nên tìm đến chúng tôi? Không hiểu sao nàng lại xen vào hỏi thế. Và thay vì giải thích cho chúng tôi hiểu cô đơn là khái niệm thuộc thế giới con người chứ không thuộc thế giới các thần, thần đồng làng lại nói về cách thế tồn tại của mình.

 

Rằng trên mặt đất này luôn có những dòng sông lớn mang lại cho đất sự phì nhiêu, và con người thì bắt đầu sự nghiệp của mình trên thứ đất đai ấy, rằng trí tuệ của con người và sự phì nhiêu của đất đã làm nên thứ thành quả có tên gọi là cuộc văn minh làm ra thức ăn, nhưng ngay tự buổi đầu sự nghiệp dong ruổi ấy thì niềm cảm hứng của con người đã phóng chiếu thành thứ sức siêu nhiên, ngưỡng mộ là ngưỡng mộ chính mình, nhưng trong dòng chảy của thứ sự vật gọi là thời gian, sự phóng chiếu đã trở thành thần minh, và con người ngưỡng mộ chính mình cũng là ngưỡng mộ thần minh.

 

Và cũng chính trong cuộc hóa thân ấy, loài người lại cảm thấy thế giới các thần là xa cách với mình? Tôi hứng thú xen vào. Thần đồng làng bảo là tôi đã hiểu ra sự tồn tại của thần. Nhưng có phải là thần đã không dám nói ra sự cô đơn của mình? Nàng chợt xen vào hỏi, và huých vào tôi thật mạnh. Về sau nàng khai thật với tôi rằng, lúc ấy nàng ganh tỵ với tôi, và hỏi thế là để khiêu khích với thần chơi. Tôi cứ tưởng lần này thần đồng làng sẽ cắt nghĩa về sự cô đơn cho nàng nghe. Hóa ra lại nói về qúa khứ oanh liệt của mình.

 

Từ cuộc văn minh làm ra thức ăn, loài người đã gọi ta là thần nông, tức là kẻ có liên quan đến việc những hạt ngô nảy mầm trong đất, liên quan đến việc con bò con sắp sửa chào đời, hay việc con gà con sắp rời khỏi vỏ, loài người ngưỡng mộ sự phồn thực là ngưỡng mộ ta, từ sự ngưỡng mộ này ta trở thành nhân vật chính của các cuộc tế lễ trong gieo trồng, cho đến lúc con người biết cách khiến một con vật nuôi đẻ thật nhiều con, khiến một loài cây trồng sinh thật nhiều quả, thì các cuộc tế lễ cũng không còn, nhưng hình ảnh ta đã trở thành thứ gia sản tinh thần của nhân loại.

 

Tức là không bao giờ thần cảm thấy cô đơn? Tôi biết nàng hỏi thế là đã đuối sức trong cuộc gây gổ với thần. Trăng đầu tháng đã lặn từ lâu. Bóng đêm như có sức khiến cho thần thánh với con người xích lại gần hơn. Chúng tôi chỉ nói đủ cho nhau nghe, nhưng vì đêm yên tĩnh quá, cuộc trò chuyện cứ như vang ra khắp đồng cỏ.

 

Ta biết là các người đang cô đơn, bỡi trong lúc cô đơn thì lại muốn kẻ khác chia xẻ với mình.

 

Đột nhiên thần bảo thế. Tôi chưa biết phải nói sao. Còn nàng thì toan phản đối cách đoán định này. Nhưng thần đã nói tiếp.

 

Thì chẳng phải các người muốn ta cũng đang cô đơn đó sao? Lúc phải trốn chạy những người khác là lúc con người cảm thấy cô đơn.

 

Biết chẳng thể dấu được thần, tôi phải nói thật là không phải chúng tôi sợ người làng ấy, mà sợ phải tham dự vào một công việc vượt quá hiểu biết của mình.

 

Ta biết, loài người các người là đang đứng trước một chặng đường mới trong sự nghiệp của mình, chẳng phải là con người đang có những việc làm chẳng kém thần thánh sao, khoa học là đang thay chỗ cho niềm tin vào thần thánh, nhưng ta biết đằng sau những minh bạch của khoa học vẫn còn tàng ẩn cái cao cả lẫn đê hèn vốn có của con người.

 

Lạ lùng thay, trong giọng nói của thần như ẩn chứa những nỗi niềm nhân gian. Và cảm nhận ấy ở nàng là còn mạnh mẽ hơn tôi, nên nàng đã lên tiếng trước tôi. Thưa, thần nghĩ sao về những chuyện đang xảy ra ở ngôi làng ấy? Tôi cứ nghĩ thần đồng làng không thèm trả lời nàng, mà sẽ cho nàng một bài học về tội ngỗ nghịch. Nhưng là tôi đã đoán lầm. Sự thất sủng của con người đối với thần là cũng chẳng hề ảnh hưởng đến sự minh triết của thần.

 

Ta phải nói thế nào với các người đây? Sự cư trú của con người trên mặt đất này là có vẻ ngẫu nhiên. Chẳng ai muốn chọn những nơi nghèo nàn như ngôi làng ấy để sống. Mà chuyện ngẫu nhiên như thế là xảy ra khắp   nơi trên mặt đất này. Và bằng trí tuệ của mình, con người đã vượt qua được biết bao cái ngẫu nhiên để làm nên những cuộc đổi thay có tên là những nền văn minh nhân loại. Có những nền văn minh tồn tại hằng nghìn năm, nhưng cũng có những nền văn minh vừa hình thành đã vụt tắt. Sụp đổ là do những ngẫu nhiên của trời đất, mà cũng là do chính bàn tay của con người. Ta đã từng thấy trong lịch sử của các người có những ông vua ngu tối loay hoay mãi trên ngài vàng, rốt cuộc chỉ làm tan hoang sự nghiệp tiền nhân để lại. Còn một vì vua tàn bạo thì làm cho thế giới này suy vong còn nhanh hơn là do thiên nhiên tàn phá.

 

Nhưng đấy là chuyện ngày xưa, còn trong hiện tại thì thần thấy thế nào về việc thay con trâu với cây cày bằng cái nhà máy công nghiệp ở ngôi làng ấy? Tôi nghĩ là thần sẽ trả lời tôi bằng cách đi thẳng vào những sự việc đang diễn ra ở ngôi làng ấy. Nhưng dường như thần gieo trồng chỉ đứng ở tầm nhìn rộng lớn, còn cái chi li là của con người. Thần nói với chúng tôi rằng, suốt thời oanh liệt của mình, cứ vào các cuộc tế lễ trong gieo trồng, thần lại được nghe cả những lời chân thành lẫn giả dối của con người, những lời chân thành là của đám người cầm cày, tức đám dân bị trị, còn những lời giả dối là thốt ra từ cửa miệng đám người cầm quyền, thường thì đó là những hứa hẹn về cách trị nước, tức những quốc sách trong việc cầm quyền. Nhưng những việc làm ở ngôi làng ấy là sẽ dẫn đến đâu? Tôi cố bắt thần phải nói ra ý nghĩ của chính thần. Nhưng thần đồng làng đã khoát tay ra hiệu chúng tôi đứng lên.

 

Có thể các   người sẽ chê những dẫn chứng của ta là cũ, là thuộc về quá khứ, nhưng rồi các người cũng không thể thoát được cái gọi là thời gian, có nghĩa ngay liền sau đây, khi ta và các người chia tay nhau, thì cuộc chuyện trò này lập tức trở thành quá khứ, và những gì đang diễn ra ở ngôi làng ấy, dẫu có dẫn đến văn minh hay man rợ, thì cũng sẽ trở thành quá khứ. Tất cả là sẽ trở thành cổ tích.

Giọng tâm huyết của thần như làm cho đêm sâu hơn.

 

mười sáu.
cảm hứng hay là hót? 

     Nhánh phụ lưu đó là phát xuất từ một vùng rừng núi sầm uất, có bao nhiêu con suối đổ vào nó, đến mùa lũ thì mang lại cho con sông quê nàng một lượng nước rất lớn. Việc tôi và nàng đến được đầu nguồn của nhánh sông đó chỉ là chuyện tình cờ.

Sáng hôm đó chúng tôi đang lang thang trên đường lộ thì một chiếc xe du lịch   cỡ trung đỗ lại ở bên đường, một người đàn ông sang trọng thò đầu ra khỏi xe hỏi tôi với nàng có muốn đi xem cho biết nơi sắp có công trình thủy điện hay không. Chỉ nghe hỏi vậy, chúng tôi cũng có thể đoán đó là người có quyền lực ở cái công trình thắp sáng sắp xây dựng ở thượng nguồn nhánh sông đó. Có thêm tôi với nàng thì trên xe, kể cả lái xe, cũng chỉ có bốn người. Và cũng không đầy một phút sau, qua cách xưng hô của người lái xe, chúng tôi đã biết đấy là vị chỉ huy của công trình thủy điện. Không cần phải giới thiệu đường đi nước bước vì đã có những tấm bảng hướng dẫn lộ trình dựng rải rác ở hai bên lộ, và cũng không cần hỏi chúng tôi là ai, vị chỉ huy công trình đã đi thẳng vào chỗ tầm cỡ quốc gia của công trình công nghiệp, những chỉ số khoa học kỷ thuật, những hiệu quả kinh tế xã hội, những biến đổi về sinh thái, ông nói, như thể cho hai công dân của đất nước là tôi với nàng hiểu ra rằng cái nhà máy thủy điện đó là sẽ mang lại ánh sáng cho người dân cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

 

Khoa học đương đại sẽ đẩy lùi toàn bộ bóng tối quá khứ còn để lại.

 

Vị chỉ huy công trình nói xong câu này thì im lặng, có lẽ là để cho tôi với nàng nói ra cảm tưởng của mình, bỡi từ lúc tôi và nàng leo lên ngồi ở hàng băng sau của xe là ông đã bắt chúng tôi nghe ông nói. Nàng huých nhẹ vào tôi, như thể nhắc tôi rằng đã đi nhờ xe người ta thì phải tỏ ra lịch thiệp một chút, có nghĩa phải có một lời gì đó khi đã nghe vị chủ nhân của xe nói quá nhiều về công việc của ông. Nhưng tôi còn đang chưa biết phải nói gì thì ông đã nói tiếp.

 

Chỉ chốc lát nữa hai anh chị sẽ nhìn thấy sức mạnh của khoa học đương đại, tôi thì vẫn thích gọi nó, thứ sức mạnh đó, là con đại bàng đang vỗ cánh trên bầu trời của thế kỷ, có thể nói là những gì làm được trong một ngày của hôm nay thì những ngàn năm trước phải tốn cả trăm năm chưa chắc đã làm được, mà hai anh chị là dân làm ăn bình thường, hay cũng là dân làm khoa học như chúng tôi ?

 

Vị chỉ huy đột ngột hỏi, và quay ra sau nhìn chúng tôi. Quả tình lúc bấy giờ tôi cũng chẳng hiểu sao nàng lại nói thế, do không tiện nói ra việc đi nhờ xe để đi tìm con nước đầu nguồn dòng sông ấy, nên nàng phải nói thế? Thưa, chúng tôi là đồng nghiệp đi nghiên cứu về các loài chim. Nàng nói với vị chỉ huy công trình như thế.

 

Là các nhà điểu học?

 

Ông hỏi lại. Và lại quay nhìn chúng tôi, lần này là có kèm theo nụ cười thật cởi mở. Thưa phải, là các nhà điểu học. Nàng đáp.Và cũng đáp lễ ông bằng một nụ cười cởi mở. Lập tức tôi hiểu ra được một phần sự thật (và sau này thì mới hiểu hết ). Và cảm thấy vô cùng tự hào về người tôi yêu. Với vị chỉ huy công trình thủy điện thì vẻ đẹp của nàng cũng ngang bằng với sức mạnh của khoa học đương đại. Có nghĩa, nếu không có nàng cùng đi, thì chẳng đời nào có chuyện tôi được vị chỉ huy ấy mời lên ngồi ở trên xe của ông. Lúc xe bắt đầu bỏ đường lộ, rẽ sang đường đất, ông lại quay nhìn chúng tôi nữa.

 

Như thế là các bạn đã có ý định đến vùng rừng núi thượng nguồn con sông này?

 

Đến lúc này thì ông xem chúng tôi là bạn. Và tôi thì vẫn để cho nàng nói về công cuộc nghiên cứu về chim. Đây là mùa nắng ráo, chắc có đủ các loài chim ở vùng núi rừng đó, nếu không có xe của ông, có lẽ còn lâu hai chúng tôi mới đến được nơi đó. Nàng nói. Đường đất có nhiều ổ rãnh, xe lắc tựa thuyền, khiến cho giọng nói của vị chỉ huy công trình như bị cắt ra thành những âm riêng lẻ.

 

Con người của ngàn năm trước không thể ngờ ngày hôm nay lại có thể làm được những điều kỳ diệu thế này, có thể nói một cách ấn tượng rằng con người của thời hiện đại khi muốn bầu trời trên đầu mình cao hơn một chút thì cứ việc làm cho cao hơn, thì chẳng phải các bạn đang chứng kiến chuyện ấy hay sao, con đường mà các bạn đang đi vốn là không có, nhưng khi con người đã muốn, thì nó đã có, và như thế là kể từ nay trên mặt đất này lại có thêm một đường đi.

 

Vị chỉ huy công trình muốn giới thiệu với chúng tôi con đường dẫn đến nhà máy thủy điện, con đường men theo ngả sông ấy, và chỉ vừa mới làm xong phần nền móng, nhưng có lẽ vì cảm hứng, ông có hơi mông lung một chút. Và suốt buổi chiều ở lán trại những người làm đường, qua các cuộc tiếp xúc giữa ông và những người dưới quyền ông, mới thấy con người này là đầy cảm hứng trong công việc của mình. Vừa đến nơi này là ông lập tức điện cho các cấp dưới của mình. Vị kỷ sư địa chất đang làm việc ở gần đó là người đến gặp ông trước nhất.

 

Các anh là đang làm công việc tra hỏi thiên nhiên, nơi nào là có thể cho mọc thêm ngọn núi hay bớt đi ngọn núi, nơi nào là có thể tạo thêm một dòng sông hay bớt đi một dòng sông, chính là các anh sẽ làm cho thiên nhiên trở nên hiền hòa hơn, trở nên hữu ích và thân thiện hơn đối với con người.

 

Vị kỷ sư địa chất phụ trách đội khoan thăm dò tuyến đập hồ chứa thủy điện có yêu cầu ông cấp thêm cho đơn vị anh ta cơ giới và con người kỷ thuật, nhưng   ông thì cứ thao thao như thế, không biết là có ghi nhận được điều này hay không. Có lẽ là nguồn cảm hứng của ông trở nên mạnh mẽ hơn khi người phụ trách công việc di dời các làng dân ở lòng hồ thủy điện đã phải vượt hằng chục cây số đường rừng để đến gặp ông kịp trong buổi chiểu. Qua cuộc tiếp xúc này, tôi biết là vị chỉ huy sẽ còn đến khu tái định cư của đám dân ở lòng hồ, rồi đơn vị khoa học kỹ thuật khảo sát lòng hồ, ông phải đến các nơi đó ngay trong đêm, và cũng quay trở về thành phố ngay trong đêm.

 

Tất cả các anh là những người đang làm cho trái đất thân yêu chúng ta có thêm một khuôn mặt mới, thì chẳng phải sắp tới chúng ta lại dời cả biển cả lên non hay sao?

 

Ông nói với con người vừa chạy bộ gần hụt hơi. Người lo công việc dời dân có nói cho ông biết trở ngại đang xảy ra là nhiều làng dân thiểu số ở lòng hồ không chịu rời núi rừng quen thuộc của mình, có nghĩa đám dân ấy chẳng thể mường tượng được cái biển cả của vị chỉ huy công trình sẽ đem lên núi trong nay mai, người lo công việc dời dân có nói cho ông biết quan điểm   chủ yếu của đám dân ấy là không đi đâu hết, nhưng vị chỉ huy công trình, trong nguồn cảm hứng của mình, bảo đó chỉ là chuyện vặt trong công việc làm khoa học.

 

Hãy nhớ rằng, chúng ta là những người đang sửa sang lại mặt đất, mai sau con cháu của chúng ta sẽ ghi công tích của chúng ta.

 

Câu cuối cùng tôi nghe ông nói với các cộng sự của mình. Nói xong câu này thì ông bắt tay tôi và nàng, hẹn gặp lại trong một ngày nào đó, cũng tại vùng núi rừng này, rồi lên xe đi. Tôi hỏi nàng có suy nghĩ gì về hình ảnh những người đang sửa sang lại mặt đất không? Nàng chỉ im. Mãi đến đêm, lúc nghỉ lại ở lán trại những người làm đường, nàng mới nói về vị chỉ huy công trình. Khi mới bắt chuyện với chúng ta, chỉ nghe mấy câu mở đầu của ông thôi, em đã nhìn thấy khả năng ca hót của con người này, do vậy mới có chuyện phải nghĩ đến một công cuộc nghiên cứu về các loài chim. Nàng bảo với tôi thế. Tôi nói tất cả những gì ông ấy nói ra đều là những chuyện lớn của loài người, không thể xen vào đó chuyện đùa cợt. Nàng nói lớn như tạo hóa còn đùa cợt nữa là nàng. Nhưng lập tức nàng bảo tôi rằng chỉ tạo hóa toàn năng là mới có thể vừa tạo tác vừa đùa cợt, còn con người là không thể, rằng một người làm công việc khoa học là không thể hót như loài chim. Như vậy là giữa tôi với nàng lại có chút bất đồng trong suy nghĩ về con người đã cho mình đi nhờ xe đến thượng nguồn con sông ấy. Tôi thì cho rằng trong khi nói năng, ông có hơi quá cảm hứng một chút. Nhưng nàng bảo để có nền văn minh đương đại các nhà khoa học đã phải cống hiến cho nhân loại cả tinh thần lẫn thể xác của họ, việc làm cái nhà máy thủy điện là thừa hưởng thành quả của văn minh đương đại, nhưng người chỉ huy công việc làm này lại nói về nền văn minh này theo ngôn ngữ của loài chim là điều chẳng thể chấp nhận. Bỡi trong mối quan hệ giữa các loài trong hiện tại thì chỉ có loài người nói về loài chim, chứ không thể có chuyện loài chim nói về loài người.

 

mười bảy.
và đấy là niềm kinh sợ.

Và ở vùng rừng núi đầu nguồn ấy, loài người đã tiến hành một cuộc khảo cứu về   chim, cả những thứ đương ca hót trên rừng, lẫn những thứ còn nằm trong trí tưởng tượng, cuộc khảo cứu có một không hai trong lịch sử nghiên cứu về các loài trong trời đất. Tay kỷ sư địa hình đương làm công việc khảo sát địa hình ở cánh rừng đầu nguồn ấy là một tay mê chim. Nó là loài gì, có phải là chim báo ngủ không, vì cứ vào   lúc mắc võng chuẩn bị ngủ thì bọn tôi lại nghe tiếng con chim ấy?   Một tra vấn khá hóc búa về chim được anh ta đặt ra ngay lúc chúng tôi mới bước vào khu lán trại của đơn vị khảo sát lòng hồ. Có lẽ là vị chỉ huy công trình đã nói khá kỹ với tay kỷ sư ấy, nên anh ta đã đón chúng tôi như đón những kẻ quen biết. Đấy là câu chuyện phải nói cả đời mới hết. Nàng phải lập tức đóng vai nhà điểu học. Ngày ngày là bọn tôi đi dò xét coi chỗ này chỗ kia cao hơn mặt nước bể bao nhiêu, là việc làm của hạ giới, khác với việc làm của những nhà điểu học, là việc làm thuộc thượng giới. Anh ta nói, chẳng phải khiêm tốn gì, mà là biểu hiện của một đam mê. Trong bữa cơm khách, cứ bưng chén cơm lên, chưa kịp và, là anh ta lại đặt xuống, để hỏi chúng tôi đủ thứ chuyện về chim. Biết nàng chẳng chống đỡ nổi trận tra vấn này, nên tôi đã phải nhảy vào cuộc. Lần này thì tôi với nàng không phải leo lên lưng cọp, mà là leo lên thế giới của tưởng tượng và bịa đặt. Chứ không tưởng tượng, bịa đặt ra các loài chim, thì tôi với nàng biết chi mà nói. Coi như cứ sáng ra là anh ta lại đưa chúng tôi đến một cao trình mới, núi rừng đầu nguồn ấy có lẽ là được tạo dựng từ một thời tạo sơn dữ dội, đất cứ gãy thành quãng lồi lõm, đứng nơi cao trình này thấy cao trình kia như ở trên đầu hay ở dưới chân mình, ngắm, đo, và xê dịch, cứ thế, cho đến khi lấy được những con số, bầu đoàn chỉ vẻn vẹn ba người, anh ta, kỷ sư địa hình, với hai đồ đệ, những tay kỷ thuật đo đạc, xê dịch, ngắm, và đo, những con số cho cuộc qui hoạch, và những loài chim chưa biết tên, câu chuyện ở những cao trình là sự hòa quyện giữa địa lý học và điểu học, thì chẳng phải ngày ngày anh ta kết hợp với việc khảo sát địa hình để đưa tôi và nàng, những nhà điểu học bất đắc dĩ, lên rừng khảo cứu về chim hay sao? Niềm đam mê dường như từ anh ta đang chuyển dịch sang chúng tôi. Mới đầu là tưởng tượng ra, dốc hết khả năng tưởng tượng ra để mà nói, riết một hồi thì cũng thấy mê cái đám chim do mình nghĩ ra. Mà như cả anh ta cũng bằng cách ấy, anh ta cũng cứ tha hồ mà nghĩ ra các loài chim để thõa mãn niềm đam mê của mình. Vì theo lời mời của anh ta, cả tôi cả nàng đều cùng anh ta nhìn vào máy ngắm, vừa ngắm, tôi vừa rỉ tai nàng (chỉ đủ để nàng nghe) rằng đấy là chim áo đà, thì có lông màu đà là chim áo đà chứ còn gì, con chim đậu trên cành cây nằm ngay trên đường ngắm, đám đồ đệ anh ta hỏi xê dịch thước về phía nào, còn anh ta thì cứ đưa cái ngón trỏ ấy lên nhịp nhịp vào chỗ khoảng không trước máy ngắm, đám đồ đệ ở đầu đằng kia vẫn cứ gào toáng lên là dịch chuyển thước về phía nào, bỡi cái ám hiệu ấy là nằm trong niềm đam mê, chứ chẳng thuộc thuật đo đạc, đúng hơn   đấy không phải ám hiệu, mà là biểu hiện của dòng suy nghĩ, cuối cùng thì anh ta cũng nghĩ như tôi, anh chị có nhìn thấy con chim áo đà không, cuối cùng anh ta hỏi chúng tôi thế. Ở cao trình ấy, chúng tôi lại thêm một loài chim nữa vào công cuộc khảo cứu của mình. Phải đến mười mấy con suối đổ vào nhánh sông ấy. Theo tay kỷ sư địa hình, các con suối ấy đều bắt nguồn từ các triền núi thuộc cụm đầu nguồn. Nàng bảo, theo một nhà điểu học châu Âu, có những loài chim có giọng hót rất hay chỉ sống biệt lập ở các đầu nguồn sông suối. Nhưng tên chúng là gì ? Anh ta hỏi, và lập tức mở sổ biên chép ra, cuốn sổ biên chép về chim như lúc nào cũng không rời anh ta. Tôi cố lắm mới không bật cười. Làm sao nàng nghĩ cho ra tên các con chim vừa mới vụt ra từ sự bịa đặt của mình? Dường trời sinh loài người là để tưởng tượng và bịa đặt ra các thứ trên đời. Trong lúc tôi lo lắng cho nàng thì nàng đã nghĩ ra cùng lúc đến hằng chục loài chim. Tên của chúng là được lấy từ những câu hát ru quen thuộc, và chỉ thêm vào đằng sau những cái tên ấy một màu sắc cụ thể là có được ngay một loài chim cụ thể, con oanh đỏ, con yến xám, con phượng vàng… Nàng có viện đến một nhà điểu học châu Âu như thế là cốt để cho tay kỷ sư địa hình hứng thú chuyển việc khảo sát đến đầu nguồn các con suối ấy. Thì chúng tôi là đang đi tìm con nước đầu nguồn con sông quê nàng, chứ nào phải là đi khảo cứu về chim. Theo qui hoạch của công trình, nơi phát nguồn các con suối ấy đều nằm bên ngoài vùng khảo sát địa hình. Mà tay kỷ sư mê chim thì cứ tìm đủ mọi cách để giữ chúng tôi lại. Có vẻ như sự có mặt của các nhà điểu học (là tôi với nàng) là để hợp thức hóa những hiểu biết về chim của anh ta. Quả tình đây là vòng luân hồi cắc cớ : Vị chỉ huy công trình ba hoa đã làm cho tôi với nàng bỗng chốc trở thành những nhà điểu học, rồi tôi với nàng cứ làm như những nhà nghiên cứu về chim đã làm cho tay kỷ sư vốn rất mê chim tưởng mình là nhà điểu học. Và biết đâu sau đó, tay kỷ sư tưởng mình là nhà điểu học, khi gặp vị chỉ huy của mình, anh ta sẽ làm cho ông ta trở thành kẻ mê chim ! Thì đã nói là anh ta đã làm cho chúng tôi mê chim còn gì. Vào một đêm, có lẽ là đêm thứ năm hay thứ sáu chúng tôi ở khu lán trại đơn vị khảo sát lòng hồ, tôi đã phát hiện ra thứ tiếng động ấy. Đang ngồi trò chuyện ở trong lán thì nghe thấy tiếng gì như tiếng chim vỗ cánh trên ngọn cây rừng ở cửa lán. Tôi liền với cây đèn pin, vụt bước ra ngoài. Đừng anh. Chưa kịp rọi đèn lên cây coi thử là chim gì lại ngủ ngay cạnh con người như vậy thì tay kỷ sư đã kéo tay tôi lại. Theo lời anh ta, lán trại của đơn vị xây dựng được chín mười hôm thì con chim ấy đến ngủ trên ngọn cây ấy. Phải có sự đồng điệu giữa người và chim thì mới có chuyện này. Tay kỷ sư nói. Tôi nói làm sao mà biết? Còn nàng hỏi sự đồng điệu ấy là gì? Chẳng hạn, luôn muốn từ bỏ những khung trời nhỏ hẹp để vươn tới một quảng trời cao rộng, chẳng hạn, luôn   muốn giọng nói của mình trở nên hay hơn, hay át cả những giọng nói khác. Anh ta nói. Quả có vẻ như có sự đồng điệu giữa người và chim về chỗ thích quảng trời cao rộng. Nhưng về khoản giọng nói, chúng tôi hỏi anh ta căn cứ vào đâu để nói thế. Tay kỷ sư liền đem cái buổi sớm trong rừng đầy tiếng chim ra nói. Loài chim là có tri giác riêng về sự chuyển động của trời đất. Và có cách thể hiện riêng tri giác đó. Khi trái đất tự xoay tròn giáp một vòng thì hầu như lũ chim rừng đã biết kêu biết hót đều thốt ra thành lời cho các loài giống khác trong trời đất biết là chúng biết một ngày nữa đã xảy ra. Những ngày đầu loài chim có mặt trên mặt đất này thì tiếng chim là thế. Nhưng rồi con chim nào cũng muốn tỏ rằng mình biết sự thật ấy bằng cách phải nói to lên, và để cho những chim khác nghe thấy thì phải nói to hơn nữa. Từ chỗ thể hiện sự hiểu biết về chuyển động của trời đất, loài chim tiến đến chỗ tranh nhau về cách diễn đạt lời nói. Cuối cùng thì không còn nói về sự thật, mà là nói về nhau, không phải là nói chuyện bình thường, mà là cãi nhau, thậm chí là nguyền rủa nhau, cứ vào lúc trái đất tự xoay tròn được một vòng, lúc nhìn thấy có ánh mặt trời sau một đêm tăm tối, thì chúng lại thức dậy để cãi nhau, chẳng cần biết trái đất có còn tiếp tục quay hay không, và ngày mai thì có còn nhìn thấy ánh mặt trời nữa không. Nàng nói như vậy là   ta phải thay đổi một cách nhìn, cái buổi sớm trong rừng đầy tiếng chim không còn được coi là bản giao hưởng của tự nhiên. Tôi biết nàng nói thế có nghĩa là đã bắt đầu cảm thấy bị lung lạc trước trí tưởng tượng của tay kỷ sư mê chim. Nhưng anh ta bảo suy nghĩ của anh ta cũng chỉ là một cách nhìn tự nhiên, mà cách nhìn nào cũng nhằm tìm ra bản chất của thực tại. Lại có tiếng chim vỗ cánh trên ngọn cây rừng chỗ cửa lán. Cả tôi lẫn nàng đều hướng mắt về phía tay kỷ sư mê chim. Có thể hiểu đấy là cách phản ứng của loài chim trước một ngoại cảnh có tiếng nói của con người, vỗ cánh mà không bay đi là chấp nhận tiếng nói của con người. Anh ta nói. Dường vừa nói anh ta vừa nhìn vào một cuốn từ điển về chim được soạn theo trí tưởng tượng phóng đãn của mình, cái mục từ anh ta đem ra nói với chúng tôi như thứ trộn lẫn giữa khoa học và thi ca. Một cái bến suối nằm trong vùng khảo sát điạ hình, một buổi sớm mai núi rừng chẳng có vẻ gì là sắp xảy biến cố, một con chim, màu lông là trộn lẫn giữa trắng và đen, bay ngang đường ngắm của anh, sà xuống bến suối, cứ tưởng là con chim bị trúng tênh của con người, nhưng không phải, vì liền đó là một con chim khác, cũng màu lông đó, vút qua đường ngắm của anh, và sà xuống bến suối, lập tức anh ghi vào hiểu biết của mình rằng bỗng chốc có đôi chim cùng sà xuống một nơi non nước hữu tình thì đấy không phải là dừng chân nghỉ sau một chuyến bay dài, mà là đang trên chuyến bay không định trước bến bờ, hoặc là để tận hưởng, hoặc để thử thách, vì có thể đấy là một cuộc tình thực sự, mà cũng có thể là chưa, lập tức anh lệnh đám đồ đệ nghỉ đo đạc, và quay máy ngắm về phía cao trình của cuộc quan hệ chưa xác định được nguồn cơn, và qua đường ngắm của mình, anh nghe thấy từng âm tiết trong từng lời chim, nghe thấy những xung động nhỏ nhất trong các cơ thể bé nhỏ của một loài giống tuy nhỏ bé nhưng lại có một lịch sử loài giống thật dài lâu, và trong khi đang xác định đấy là một cuộc tình, thì qua đường ngắm của mình anh nhìn thấy tựa hồ như một thác nước xám ngoắc đang đổ ngược về thượng nguồn, nhưng nhìn lại thì chẳng phải là thác, mà là một con chim to lớn, cứ gọi nó là một con đại điểu, kéo sau nó là đám chim bản địa đang góp lại thành thứ sức như thác đổ, một cuộc đánh đuổi kẻ ngoại nhập, nhưng anh bỗng có cảm tưởng đường ngắm của mình bị xé ra, nhưng là không phải, để còn được bay lượn, con chim to lớn đã quày đầu lại, một cuộc va chạm giữa hai thứ sức sống, không phải là đường ngắm bị xé ra, mà các cuộc tồn sinh bị xé ra, qua đường ngắm, anh nhìn thấy rơi lả tả xuống nơi bến suối những xác chim, mọi thứ diễn ra thật là nhanh đến nỗi anh phải nghĩ rằng cả cuộc tình mình vừa xác nhận được cũng đã tan tành theo cuộc va chạm kia, và mọi thứ là diễn ra nhanh đến nỗi tưởng chẳng có gì xảy ra, bỡi liền đó, qua đường ngắm của mình, anh nhìn thấy lũ chim từng đôi sà xuống nơi bến suối, còn núi rừng thì vẫn vang rộn tiếng chim. Tay kỷ sư mê chim nói với chúng tôi rằng núi rừng là nơi để cho các thế hệ loài chim tiếp tục viết cuốn sử về loài giống mình, một cuốn sử truyền miệng. Có quả là như vậy hay không? Lúc anh ta bước ra ngoài, chắc là để xem thử con chim thích tiếng người đã ngủ chưa, nàng rỉ tai tôi, hỏi. Tôi nói chỉ đủ để cho chúng tôi nghe, rằng trong lúc tôi và nàng nghĩ ngợi về cái thuyết lý về chim của anh ta, thì trong hai chúng tôi chẳng ai nhìn thấy được, cũng như chẳng hiểu được, việc trời đất đang giãn nở như các nhà khoa học nói, nhưng chuyện đó là có đó. Chúng tôi lại lặng đi trong giây lát. Trí tuệ con người lớn lao biết bao mà cũng nhỏ nhoi biết bao trước vẻ kỳ bí của tự nhiên. Nàng nói. Và khẽ rùng mình. Tôi cũng khẽ rùng mình.

 

mười tám.
biến tấu.

     Để cho dễ hiểu, anh ta dịch hai tiếng địa chất ra nôm na là lòng đất. Nếu nói chuyện về lòng đất thì được, còn chuyện các loài chim, tôi đành chịu. Ngay từ phút mới gặp chúng tôi, tay kỷ sư địa chất đã tỏ ra chẳng mấy hứng thú về chuyện các loài chim. Đơn vị khảo sát địa chất của anh ta nằm ở thượng nguồn một con suối lớn. Rời đơn vị khảo sát địa hình sang đây là chúng tôi tiến đến gần con nước đầu nguồn. Tôi với nàng quyết định khi sang đây là sẽ vứt bỏ cái mác nhà điểu học đã cầm chân chúng tôi ở đơn vị của tay kỷ sư mê chim gần nửa tháng trời. Nhưng vị chỉ huy công trình, có lẽ bị vẻ đẹp của nhà điểu học nữ mê hoặc, đã giới thiệu khá kỹ với anh ta về hai chúng tôi. Có nghĩa tay kỷ sư địa chất tiếp tôi với nàng là tiếp những nhà nghiên cứu về chim. Quả tình bấy giờ tôi rất khâm phục nàng. Khi biết tay kỷ sư địa chất không mấy thích chuyện chim chóc, nàng đã lập tức chuyển tôi với nàng sang một địa hạt khoa học khác. Lúc đầu là chúng tôi lên rừng tìm dấu vết người tiền sử, sẵn dịp nghiên cứu thêm về các loài chim, nên người ta lại gọi chúng tôi là những nhà điểu học. Tôi có giật mình khi nghe nàng nói thế. Nhưng liền hiểu đi tìm dấu vết người tiền sử cũng có nghĩa là phải lặn lội khắp nơi, vào lúc đó thì nói thế là hợp lẽ nhất, vì nói thế là vừa giữ được thể diện của chúng tôi (thứ thể diện hình thành từ sự đùa cợt của nàng) vừa có thể nhờ tay kỷ sư ấy đưa chúng tôi đến bất cứ đầu nguồn sông suối nào, có nghĩa là nàng đã chuyển chúng tôi sang chính công việc của mình. Nhưng cũng kể từ giây phút ấy thì tay kỷ sư ấy bắt đầu tỏ ra chẳng tin chúng tôi là những người làm công việc nghiên cứu khoa học. Những ngày tôi và nàng theo đơn vị khảo sát đi hiện trường (khi là ở ven bờ, khi là ở lòng con suối lớn) anh ta chẳng hề đá động đến chuyện chim chóc lẫn chuyện người tiền sử, mà qua các lần chuyện trò, dường anh ta có ý muốn khai thác ở chúng tôi   về những lĩnh vực thuộc đời sống con người đương đại. Anh ta có nói rất nhiều về công cuộc khảo cứu địa chất của mình, nhưng lắm khi, qua cách diễn đạt của anh ta thì dường như đó là những gì đang xảy ra trên mặt đất, chứ không phải trong lòng đất. Vào một ngày có nhiều mây đen vần vũ trên bầu trời mùa hạ, chúng tôi theo đơn vị của anh đến hố khoan ở lòng con suối đó. Một mẫu đất đá là sắp được lấy lên khỏi lòng đất. Nhưng trước khi nhìn thấy cái kết quả đáng vui ấy thì tay kỷ sư địa chất lại có vẻ chẳng mấy vui. Khi đã chạm vào tự nhiên thì chúng chẳng còn như chúng nữa. Anh ta nói. Tôi nói như thế thì làm sao có được những kết luận khách quan về điều tra địa chất. Mọi kết luận trên đời này đều có tính xác xuất, người ta còn tính tới chuyện một ngày nào đó thì vũ trụ sẽ co lại và nổ tung, nữa là… Anh ta bảo. Trong lúc tôi với nàng còn đang băn khoăn về kiểu nói năng có phần ảm đạm của anh ta thì mẫu đất đá đầu tiên trong ngày đã được lấy lên khỏi mặt đất. Đám đồ đệ của anh ta lập tức đặt những mẫu đất ấy vào những chiếc thùng gỗ được đóng theo kiểu dáng rất đặc trưng. Những mẫu khoan là sẽ được chuyển đến viện nghiên cứu địa chất, quá khứ hỗn độn của đất là sẽ được đem ra phanh phui trước con người. Tay kỷ sư ấy nói. Có nghĩa con người sẽ dựng lên công trình thắp sáng của mình sau khi đã hiểu rõ lịch sử của đất ở vùng núi rừng này. Tôi nói. Anh ta bảo thường là thế, nhưng lắm khi lại phải lặn ngụp trong thứ lịch sử không lời này. Tôi nói là mình chưa hiểu ý của anh ta. Còn nàng thì hỏi đấy có phải là biến tấu của khoa học về lòng đất hay không? Chính là câu hỏi có vẻ kỳ quặc này của nàng   như một thứ chỉ dẫn để cuối buổi chuyện trò tay kỷ sư ấy đã bắt chúng tôi phải khai thật với anh ta chúng tôi là ai. Còn lúc ấy, thay vì trả lời câu hỏi của nàng, anh ta đã cho chúng tôi nghe một thứ biến tấu khác, biến tấu về nơi chôn nhau cắt rốn của anh ta. Vẻ kỳ quặc của câu chuyện là nằm trong dự án của những người đã chết. Đèo nào cao bằng đèo núi này, đất nào tốt bằng đất nơi đây, một năm làm ba năm ăn không hết. Cái dự án đã được cô đọng thành tiếng hát ru. Thế hệ ông cố của anh lớn lên trong tiếng hát ru này, hiểu nó như một lý tưởng cao siêu do tổ tiên đề ra, và phải chờ đến đời con cháu mình mới thực hiện nổi. Thế hệ ông cố anh là ngang với thế hệ những nhà khoa học đương sống trong niềm cảm hứng trước những luật lệ vũ trụ do Newton đề xướng, và đương cãi nhau có phải loài người và loài khỉ là có chung một ông tổ hay không. Nếu bấy giờ có ai đem những chuyện ấy ra nói với những người thuộc thế hệ ông cố anh, thì cũng chẳng ai chịu nghe. Những chuyện ấy là chẳng cần thiết đối với những người đang sống trên   mảnh đất ngẩng đầu lên là thấy núi thấy đèo, ở mảnh đất mà chuyện cơm ăn áo mặc theo đúng nghĩa của nó vẫn còn phải nhờ đến sự cổ vũ của thi ca (Nói không đất nào tốt bằng đất ở đây chỉ là một cách cổ vũ) Ông nội anh nói lại với cha của anh, cha của anh nói lại với anh, rằng thời ông cố anh, có những năm ăn tòan củ mài đào được ở ngọn núi có cái đèo cao đã đi vào thi ca. Có nhiều người đi đào củ mài vừa đi đến chân núi đã ngã xuống chết vì đói quá. Tất nhiên chẳng ai biết, mà có biết cũng chẳng để làm gì, là nhờ có luật vũ trụ hấp dẫn nên người chết mới có thể ngã xuống ở chân núi. Thế hệ ông nội anh vẫn lớn lên trong tiếng hát ru ấy, và tiếp tục ngẫm nghĩ về cái dự án ấy. Thế hệ ấy là ngang với thế hệ các nhà khoa học đã thấy được tất cả các loài giống trên mặt đất này là có cùng nguồn gốc hữu cơ nguyên thủy. Ánh sáng của nền văn minh đương thời có soi rọi đến nơi này chứ không phải là không. Có nghĩa, thế hệ ông nội anh thấy mảnh đất của mình không nuôi nổi cây lúa, đã quyết định chuyển sang trồng các giống cây khác. Mới đầu là cây sắn. Rồi thấy đất không nuôi nổi cây sắn, thì chuyển sang cây bắp. Rồi đất cũng chẳng nuôi nổi cây bắp, nên chuyển sang trồng đậu trồng lang. Nói đất không nuôi nổi không có nghĩa trồng đâu chết đó, mà là cây trồng cho sản phẩm quá ít. Một năm làm, ăn vài tháng là hết. Vì thiếu nước thành đất trồng không thể nuôi nổi cây trồng. Biết vậy, chứ chẳng thể thay đổi được. Bỡi vì trời không sinh ra con sông nào chảy qua đây. Mà cũng chẳng có chỗ nào để đắp hồ chứa nước được. Trong lúc nhiều nơi trên mặt đất này người ta thừa hưởng các thành quả văn minh một cách ngang nhiên, thì thế hệ ông nội anh vẫn sống trong chờ đợi những ngẫu nhiên. Trời sinh voi sinh cỏ là cách diễn đạt về sự chờ đợi này. Trong lúc chờ đợi cái ngẫu nhiên thì thế hệ ông nội của anh đã hạ sinh được thế hệ của cha anh. Thế hệ của cha anh là ngang với thế hệ những nhà khoa học đã nhìn thấy được cái thế giới vật chất nhỏ bé đang chuyển động trong mỗi hạt lúa. Tất nhiên là những người sống ở mảnh đất ngẩng đầu thì thấy núi thấy đèo ấy chẳng thể hiểu nổi câu chuyện cao siêu này. Mà giả dụ có hiểu thì họ cũng cho đó là chuyện xa xỉ. Điều cốt tử họ muốn biết là làm cách làm sao cho đất ở đây nuôi nổi con người. Dường như thế hệ của cha anh là có ý lờ đi cái dự án của tổ tiên. Đồng ruộng thưa dần người cày bừa. Không phải nền văn minh đô thị có sức hút đối với những người thuộc thế hệ của cha anh. Có một làn sóng người rời đồng ruộng quê anh kéo đến các đô thị thật. Nhưng đó là sức hút của đám dân quê đối với văn minh đô thị. Có đến bao nhiêu người dân quê ùa đến đô thị, nhưng các đô thị đều bảo là chưa đủ.   Nền văn minh này là đang rất cần những đôi vai gồng gánh ở các bến xe bến tàu, ở các buổi họp chợ, là đang rất cần những người làm được những công việc tuy là nhỏ nhưng không phải ai cũng làm được, như rửa nhà xí rửa chén bát trong các nhà hàng, các khách sạn, hay đứng trông coi trẻ để cho các bà mẹ có đủ thời gian bảo dưỡng vẻ đẹp trời sinh của một phụ nữ. Nhưng cái nào hút cái nào chẳng phải điều quan trọng. Điều đáng nói là cái dự án cổ xưa vẫn tiếp tục gắn kết những con người ấy với mảnh đất của cha ông. Cuối cùng thì tất cả những người ra đi đều quay lại nơi ngẩng đầu lên là thấy núi thấy đèo, và hạ sinh được một thế hệ khác, thế hệ của anh, thế hệ đã viết lại dự án của tổ tiên. Thế hệ này là ngang với thế hệ những nhà khoa học đang đứng lên vai các vị khổng lồ trước họ để tìm kiếm cái qui luật lớn nhất đang chi phối vạn hữu. Đây là thời đứng ở đầu bên này nghe thấy được và nhìn thấy được các thứ ở đầu kia mặt đất. Thời con người có những việc làm có thể sánh bằng các vị thần thánh cổ xưa. Và một hôm, trong   không khí văn minh thần thánh này, những người có quyền cai quản cuộc sống ở mảnh đất ngẩng đầu thì thấy núi thấy đèo đã long trọng tuyên bố với mọi người là phải sửa lại dự án tổ tiên cho hợp với văn minh đương đại. Không phải một năm làm ba năm ăn không hết, mà một năm làm mười năm ăn không hết. Bằng cách nào? Có thể hiểu câu trả lời là một thứ quyết định luận trong tư duy kinh tế, mà cũng có thể hiểu đấy là thứ tình cảm thiêng liêng (nếu không muốn nói là lãng mạng) đối với mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Đây là thời hết thảy các chính phủ trên mặt đất này mở miệng là nói phải làm giàu đất nước, là thời mà sự giàu có được coi như niềm đam mê mới mẻ nhất trong việc trị nước của các vị nguyên thủ của hầu hết các quốc gia hiện đang có mặt trên bản đồ thế giới, là thời mà việc xuất nhập khẩu hàng hóa của một quốc gia được coi như chìa khóa mở cửa vào cõi giàu có, bỡi từ cân đường cân thịt cho đến tri thức của con người đều được xem là hàng hóa. Thời đại đã tặng ta cách bẩy làng xóm lên. Những người   có quyền cai quản cuộc sống ở mảnh đất ấy tuyên bố. Làng quê anh lúc bấy giờ tựa châu Âu sau khi Corpernic phát hiện ra cuộc chuyển động của vũ trụ, con người là phải tự giải phóng mình khỏi ngu muội, còn ở làng quê anh là tự giải phóng mình khỏi nghèo đói. Hết thảy mọi người đều bị cuốn hút vào bầu không khí của đêm trước cuộc cách mạng. Sắp xóa bỏ cái nghèo đói vẫn bám theo con người nơi đây tự thuở mới lập đất lập làng thì chẳng phải là cách mạng sao? Câu trả lời cho câu hỏi bằng cách nào để một năm làm mười năm ăn không hết là luận chứng kinh tế kỷ thuật được thảo bằng miệng: Hết thảy đất đai ở đây đều trồng   mía để sản xuất đường xuất khẩu. Cũng chẳng cần phải bàn luận gì nữa vì hết thảy các giống cây khác đều đã được đem ra trồng trên mảnh đất ấy, chỉ trừ cây mía. Tựa cuộc hành quân ra trận. Mà cũng phải thôi. Đây là trận chiến chống thằng giặc nghèo đói đã chiếm đóng nơi này quá lâu. Người đi ngân hàng vay tiền làm vốn cho sản xuất. Tất nhiên đây là công việc làm trước tiên trong cuộc hành quân. Người đi tìm mua giống mía. Tất nhiên là phải tìm mua các giống mía mới được lai tạo. Người đi nhà máy chế biến đường để hợp đồng bán mía. Có vẻ đây là trận cuối cùng và có tính quyết định. Cuối cùng vì chỉ còn mỗi   cây mía là chưa đem ra trồng ở đây, cuối cùng mà không đạt nữa thì cũng chẳng biết phải làm thế nào. Quyết định vì đây là thời điểm thế giới đang tiêu thụ đường rất mạnh. Có vẻ trời ủng hộ làng quê anh. Chẳng có điều tra thổ nhưỡng, nhưng quả tình là cây mía chịu đứng trên mảnh đất này. Khi thấy mía phát triển tốt, người ta liền làm những phép tính, cũng bằng miệng, và thấy rằng sản phẩm đường sẽ thu hoạch từ đồng ruộng mía đó sẽ gấp mấy chục lần các sản phẩm của các giống cây khác từng trồng ở đây. Do quá phấn khởi trước thứ tương lai tươi sáng, người bán bớt bò cày, người vét bán thóc gạo, có người còn dám tới ngân hàng để vay thêm, nói dối là vay thêm cho sản xuất mía đường, nhưng là để đi mua máy nghe máy nhìn về nghe xem cho biết thời cuộc, những thứ nếu không có cái tương lai tươi sáng ấy thì chẳng đời nào dám nghĩ tới. Khoảng trời phía trước vẫn bày ra một cách tốt đẹp. Có nghĩa toàn bộ ruộng mía vẫn trên đà phát triển. Cho đến một hôm, lúc sắp thu họach mía, thì người ta nghe thấy không phải tiếng máy, mà là tiếng thở dài, vọng lại từ cái nhà máy chế biến đường ấy. Đường ngoại nhập giá rẻ đang tràn vào thị trường trong nước. Toàn bộ những hợp đồng mua đường của nhà máy chế biến đường ấy đã bị khách hàng hủy bỏ. Mà cũng phải thôi. Người ta phải mua đường giá rẻ hơn để khi bán lại thì lãi nhiều hơn. Và ở ngôi làng của anh, mới đầu là tiếng thở dài, y như tiếng thở dài ở cái nhà máy chế biến đường ấy, nhưng sau đó là tiếng khóc. Khi nhà máy chế biến đường hủy bỏ những hợp đồng mua mía thì chẳng phải là tang tóc phủ lên đầu những người trồng mía ở mảnh đầt ngẩng đầu là thấy núi thấy đèo ấy sao? Cái cơ nghiệp coi như lớn nhất trong cuộc cơm áo vừa gầy dựng được đã ập xuống quá bất ngờ làm cho ai nấy đều cảm thấy như đang trong mơ. Nhà máy chế biến đường sẽ bồi thường thiệt hại theo cam kết của hợp đồng. Nhưng bắt kẻ đương hấp hối đi cứu một kẻ cũng đương hấp hối là điều không thể. Phải chờ. Người ta đã tìm đến tất cả những nhà máy chế biến đường có thể đến. Nhưng chỗ nào cũng trả lời phải chờ bán được số đường chưa bán được mới mua mía. Có trời biết chừng nào mới bán được mía. Bỡi chẳng ai biết trên thế giới có bao nhiêu người ăn đường, và   mỗi ngày thì ăn được bao nhiêu đường. Chỉ còn chờ. Nhưng cây mía lại sống theo qui luật của nó. Khi đất đai cho nó đủ lượng đường nhưng con người không dùng tới, thì đất đai lấy lại. Tức, mía vẫn sống, nhưng đường trong mía cứ vơi dần. Tình trạng thế gọi là mía chạy đường. Không đủ sức chịu đựng khi ngày nào cũng nhìn thấy cơ nghiệp của mình đang sụm xuống một cách vô phương cứu chữa, người ta đành bảo nhau là phải đốt đi . Đồng mía cháy suốt mấy ngày đêm. Khi tay kỷ sư địa chất kể đến chỗ mía cháy, khói tỏa mịt trời, nàng rỉ tai tôi bảo là mình sắp chết ngạt mất. Trong lúc tôi đang lo lắng cho tình trạng của nàng, tay kỷ sư hỏi chúng tôi là ai, và lên rừng để làm gì? Cuối cùng thì cũng nghe được câu hỏi mà tôi với nàng vẫn chờ đợi suốt những ngày theo anh ta đi hiện trường khảo sát.

 

mười chín.
một cách cắt nghĩa tồn tại    

     Sau khi đã khai thật với anh ta chúng tôi là ai và lên rừng để làm gì, tôi hỏi làm sao anh ta lại biết được chúng tôi là những nhà khoa học giả. Anh ta nói từ nước lên thì áo quần ướt sũng, từ trong lửa ra thì thịt da cháy sém, từ cuộc tìm kiếm chưa gặp được điều tìm kiếm thì vẻ mắt khao khát. Tôi hỏi theo anh ta thì chúng tôi thuộc loại nào trong những loại người vừa nói. Anh ta bảo khi nghe nàng nói đến hai tiếng biến tấu ( biến tấu của khoa học về lòng đất) anh ta lập tức nhận ra việc tôi với nàng xưng là nhà điểu học, hay xưng là đi tìm dấu vết người tiền sử, cũng là một thứ biến tấu. Tồn tại là một biến tấu vượt mọi hạn định, vượt mọi ý định,   một chiếc lá rơi cũng đủ mang lại một cuộc phù du. Anh ta nói. Và như vậy là sau cuộc phù du ở mảnh đất ngẩng đầu là thấy núi thấy đèo, nhân loại ở đó vẫn tiếp tục hít thở không khí văn minh đương đại? Nàng nói, như thể đám khói cháy mía hôm nào vẫn còn phủ lên cuộc trò chuyện của chúng tôi. Một ngày chuyển mưa. Đơn vị khảo sát nằm nhà. Chúng tôi gòm có ba người, tôi, nàng, và anh ta (đám đệ tử anh ta kẻ đi bẩy gà rừng, kẻ đi tìm măng rừng, thứ măng tre rừng mùa hạ còn đắng hơn thuốc đắng) Nó là văn minh da beo. Anh ta nói. Cứ coi câu đó như là cách mở đầu cho cuộc khảo sát về tồn tại. Cả tôi lẫn nàng đều nói chưa hiểu. Anh ta phải dẫn dụ lịch sử : Mười ngàn năm trước, trên mặt đất này có chỗ người ta biết nuôi heo nuôi gà, nhưng chưa biết trồng trọt, có chỗ vẫn còn tiếp tục săn bắn, hái lượm, có chỗ thì còn ăn thịt nhau, thế kỷ mười chín thế kỷ hai mươi, sử nói là thời văn minh hiện đại, thì trên trái đất này có chỗ người ta đã có đủ tiền đi chơi ở trên trời (còn gọi là du lịch không gian) nhưng có chỗ người ta còn ở hang, và cũng không phải là không còn chuyện ăn thịt nhau, văn minh loài người không phải như điện, như nước, cứ cho vô kênh dẫn là chạy đều khắp, mà luôn loang lổ, tựa một tấm da beo. Trong lúc anh ta đi nhóm bếp nấu cơm, nàng rỉ tai tôi bảo đấy là một kẻ chán đời. Hoặc là loang lổ, hoặc là không gì cả. Anh ta vừa thổi cơm, vừa   tiếp tục cuộc khảo sát. Mùi lửa bếp tỏa khắp lán. Hoặc là có canh măng nấu gà rừng, hoặc là không gì cả. Một tay đồ đệ của anh ta đã về, tiếp lời anh ta (Đi gỡ bẩy gà, và trở về tay không) Việc chủ yếu của nhân loại là chờ. Anh ta nói. Cứ cho câu đó là bổ sung cho định nghĩa về tồn tại của anh ta (tồn tại là chờ) Một đầu óc hơi nghiêng về bóng tối. Nàng lại rỉ tai tôi. Tôi cũng rỉ tai nàng bảo có lúc nàng cũng nghiêng như thế. Lẽ ra tôi phải nói thiếu chút nữa là nàng ập đổ vào bóng tối. Ập đổ, chứ không phải   nghiêng. Thì chẳng phải sau trận đòn chí mạng của vị cựu sứ thần là nàng gần như rơi vào cõi tăm tối hay sao? Chờ, và phải luôn giả thiết là sẽ đạt được, nếu không, chẳng ai thèm chờ. Tay kỷ sư đia chất tiếp tục bổ sung cho định nghĩa về tồn tại của anh ta. Tôi nói như thế cuộc sống là một chuyển động luôn hướng về phía trước. Anh ta bảo cuộc sống là một cuộc đánh cược vĩ đại nhất và ngu ngốc nhất, món tiền cược là cả cuộc đời chúng ta, và hết thảy chúng ta đều biết kết cục của cuộc chơi này là cái chết, tất nhiên, trong lúc tham gia cuộc chơi, mọi người đều quên, hoặc đều giả vờ, là chẳng nhớ cái kết cục ấy. Có thể gọi là thể nghiệm, thay vì đánh cược, có được không? Khi hỏi thế là nàng đã nhìn tay kỷ sư địa chất khác đi, có nghĩa, đã chịu tham gia vào cuộc khảo sát do anh ta đề xướng. Đánh cược hay thể nghiệm là đều cố đạt điều mong muốn, khi hôn nhau ta nghĩ đang có được tình yêu, còn bắn giết nhau là cho rằng mình sẽ thắng, và tất nhiên là chẳng có gì là chắc chắn cả. Anh ta nói. Tôi thấy nàng có vẻ lo lắng, bỡi cách diễn đạt của tay kỷ sư là đụng đến cuộc thể nghiệm về tình yêu của chúng tôi. Và cái triết lý về sự chờ đợi của nhân loại đã được lập tức thể nghiệm. Cả tay kỷ sư, cả tôi lẫn nàng, đều nghĩ bữa cơm trưa sẽ có gà rừng nấu với măng rừng. Và đã chờ. Nhưng gần trưa thì đám đồ đệ anh ta ùn kéo vô lán, tất cả đều trở về tay không. Bữa trưa hôm ấy cũng chỉ có cơm   với ruốc khô, thứ thức ăn chủ yếu của những người phải ở dài ngày trên rừng. Công việc hệ trọng của loài người là phải tạo ra những giả thiết tốt đẹp cho cuộc sống của mình. Tay kỷ sư địa chất vừa ăn, vừa tiếp tục cuộc khảo sát còn bỏ dở. Mai là bọn ta sẽ có thịt heo rừng nấu với nấm linh chi. Sau một hồi im lặng, một tay đồ đệ của anh ta nói. Và cả hai thứ ấy là đều nằm trong danh mục “nghe nói”. Một tay đồ đệ khác liền bổ sung (nghe nói vùng rừng đầu nguồn ấy xưa có hàng đàn hằng lũ heo rừng, nghe nói trên ngọn núi nơi phát sinh con suối ấy có nấm linh chi) Đấy là một thứ tương lai vĩnh hằng. Tay kỷ sư nói. Nàng hỏi có phải anh ta đang nói đến ảo ảnh cuộc đời hay không? Anh ta bảo con người là sinh vật duy nhất biết có ngày mai, trong cái gọi là ngày mai thì có cái chết, biết là chết mà vẫn cố tạo ra bao nhiêu chuyện để hướng tới gọi là tương lai, nếu như cái ảo ảnh ấy không phải là vĩnh hằng, tức chết trước cái chết, thì loài người đã treo cổ chết cả từ lâu. Một kẻ cố mô tả cho bằng được gương mặt của tồn tại. Tôi rỉ tai nàng. Nhưng các vị có chắc là sẽ nhìn thấy con nước đầu nguồn của sông ấy hay không? Đến lúc sắp kết thúc cuộc khảo sát, tay kỷ sư bỗng quay lại cuộc tìm kiếm của chúng tôi. Tôi nói đấy là việc lớn nhất của cuộc đời chúng tôi, nên bất cứ giá nào cũng phải đạt cho bằng được. Đi tìm con nước đầu nguồn con sông ấy là chuyện bí mật của các vị, chẳng dám bàn, chỉ muốn hỏi là các vị định đi tìm nó ở đâu? Tôi nói là ở nơi phát xuất bất cứ sông suối nào đổ về con sông quê nàng. Sông có phụ lưu sông, phụ lưu thì có chi lưu, như vậy là phải đến tất cả các đầu nguồn sông suối? Anh ta hỏi. Tôi nói chỉ cần nhìn thấy nơi phát xuất của mỗi một con nước đầu nguồn là đạt được điều chúng tôi mong muốn. Chuyện khởi đầu của sự vật là chuyện vô cùng rắc rối trong sự hiểu biết của con người, nó, cái chỗ bắt đầu của muôn vật ấy, cái nguyên do của tồn tại ấy, cũng là thứ nguyên do xua đẩy con người vào chỗ thù hằng nhau. Anh ta nói. Và bắt đầu miêu tả, theo cái cách của anh ta, đường đi của con sông chảy qua quê nàng… Ta nói nước con sông ấy phát nguồn từ ngọn núi ấy là chỉ mới nói theo cách qui chiếu theo mặt đất, nhưng nước ao hồ sông suối là kết quả của cuộc luân hồi định mệnh vòng vo lên trời xuống đất của nước nơi biển cả, nhưng biển cả lại là kết quả của một cuộc bể dâu hằng tỉ năm về trước, cuộc bể dâu bắt đầu bằng công cuộc nung nấu đất trời, phải đến vài trăm triệu năm sau cuộc nung nấu đó mới chịu nguội đi, để cho nước từ đất mới thoát được lên trời, và còn phải tốn thêm bảy tám trăm triệu năm nữa để cho mưa tạo ra biển cả, người ta đã đo đếm được trận mưa kéo dài bảy tám trăm triệu năm ấy là xảy ra gần bốn tỉ năm về trước, có nghĩa, con nước đầu nguồn của con sông bắt đầu đổ vào sông ấy là đúng vào hôm cách nay gần bốn tỉ năm. Tôi hỏi có phải như thế là phải quay về quá khứ mới nhìn thấy được con nước đầu nguồn? Còn nàng thì hỏi làm cách nào để quay về quá khứ? Tay kỷ sư bảo những tra vấn kiểu ấy thì chỉ chính tồn tại mới giải đáp nổi. Cuộc khảo sát về tồn tại do anh ta đề xướng lại giáng vào tôi với nàng một đòn chí mạng.

 

 

hai mươi.
mưa mùa hạ
 

     Cái vũ trụ sơ khai quả có thật như khoa học hiện đại phát hiện, thì trận mưa bảy tám trăm triệu năm ấy quả là thứ nguồn mạch của mọi dòng sông trên mặt đất này. Có nghĩa tôi với nàng phải lùi về bốn tỉ năm trước mới uống được con nước đầu nguồn con sông quê nàng. Sau cuộc khảo sát về tồn tại do tay kỷ sư địa chất đề xướng, cả tôi lẫn nàng đều cảm thấy như không còn đủ sức đề kháng để chống lại nỗi tuyệt vọng. Có nghĩa bí mật ấy mãi chìm trong im lặng. Một bí mật của tình yêu chúng tôi đã phát hiện ra vào một chiều mùa thu khi ngồi lặng nhìn con sông quê nàng, nắng, bóng mây, và đám xác cỏ lá, tất cả là đang trôi, gương mặt thời gian ấy gợi nhớ sự tàn rữa, có thể nào có được một tình yêu vĩnh hằng trong cuộc dịch chuyển này không, nàng chợt băn khoăn, còn tôi thì chợt nhận ra rằng sự vĩnh hằng là sẽ xảy ra vào một ngày chúng tôi cùng uống được con nước đầu nguồn con sông quê nàng, con sông đã hun đúc nên hình hài thịt xương của người tôi yêu. Sau cuộc khảo sát do tay kỷ sư đề xướng, tôi nói với anh ta là hai chúng tôi phải nghỉ đi hiện trường, để lấy sức cho cuộc tìm kiếm sắp tới. Thật ra cả tôi lẫn nàng đều muốn có những phút yên tĩnh nơi lán trại để nghiền ngẫm thử có quả là nỗi tuyệt vọng đang đánh bại mình hay không (sáng ra là thầy trò tay kỷ sư kéo hết đi hiện trường, chỉ trừ những ngày nghỉ, và đã đi hiện trường thì việc ăn uống của đơn vị khảo sát là ở hiện trường) Nằm trong căn lán giữa rừng già, nhìn những dấu vết của con người, bếp nấu kê bằng đá núi, mái lá trên đầu… tôi đã cố nghĩ những thứ đang trải ra trước mắt mình là thuộc về một cuộc dịch chuyển chẳng có sự phân biệt giữa những gì gọi là đã qua với những gì gọi là chưa đến, nếu bấy giờ không có tiếng thở dài của nàng thì tôi cho là mình sắp được nhìn thấy trận mưa bảy tám trăm triệu năm tay kỷ sư địa chất đã trích dẫn từ một tư liệu khoa học nào đó. Và quả tình là tiếng thở dài có vẻ như mất sức đề kháng của nàng lại giống như một thứ sức mạnh kỳ diệu tiếp sức cho đầu óc tôi. Cả tình yêu vĩnh hằng chúng ta đang thể nghiệm lẫn cái vũ trụ sơ khai khoa học hiện đại mô tả đều là sản phẩm của trí tuệ con người. Tôi nói. Có nghĩa là ta có quyền suy nghĩ về con nước đầu nguồn theo cách của ta? Nàng hỏi. Tôi nói dẫu tan xương nát thịt cũng phải tiếp tục cuộc tìm kiếm. Rồi vực nàng dậy, ra đi.

Tự nhiên không đơn giản như khi nhìn vẻ bên ngoài của nó. Đứng ở lán trại đơn vị khảo sát địa chất nhìn lên cái thác nước nhỏ nơi sườn núi thấy rất gần. Vậy mà chúng tôi đi gần buổi đường vẫn thấy như khỏang cách ấy chẳng giảm chút nào. Thác nước là một trong những mạch nguồn đổ về thuợng nguồn con suối lớn, nơi đang diễn ra công việc khoan thăm dò địa chất.Và con suối lớn là một trong những nguồn suối đổ về nhánh phụ lưu con sông quê nàng. Những ngày theo đơn vị khảo sát đi hiện trường, mỗi lần nhìn lên con thác ấy, chúng tôi lại nghĩ đến lúc mình đặt chân đến đó. Còn tay kỷ sư thì bảo trong đầu óc anh ta chưa bao giờ có ý nghĩ về việc hai chúng tôi đến được con thác đó. Lúc nghe anh ta nói, tôi chỉ thấy buồn cười cho một kẻ cứ muốn nhìn mọi thứ trên đời   một cách khác đời. Đến khi đi gần buổi đường vẫn thấy như chưa đi, mới thấy anh ta có lý. Trên con đường đến thác nước ấy, chúng tôi đã lội qua con suối lớn gần vài mươi bận. Đấy là con đường rừng những người đi rừng, đến trước chúng tôi, đã tạo ra. Vệt nước trắng xóa nơi sườn núi như có vẻ đùa cợt với tôi và nàng. Lúc có cảm tưởng vói tay là đụng. Lúc thì thấy xa vời vợi. Ăn cơm vắt xong, chúng tôi thấy có nhiều mây đen kéo đến trên bầu trời đang nắng gắt. Nàng bảo trời có thể mưa. Tôi bảo chẳng có cơ sở nào để mưa. Nàng nói mây là cơ sở của mưa. Tôi nói đấy chỉ là một trong những thứ vật thể ở trên trời, đâu phải hễ thấy mây là mưa. Quả tình tôi cũng rất sợ mưa, nhưng vẫn cố biện luận như thế để trấn an nàng và tự trấn an mình (thì chẳng phải đoàn khảo sát địa chất có lúc đã sợ mưa xảy bất thường, phải nghỉ đi hiện trường đấy sao) Cơn mưa mùa hạ quái quỉ đã chen vào cuộc tìm kiếm của chúng tôi. Nhưng đó là chuyện sẽ xảy ra sau đó. Còn lúc đó, từ chuyện mưa, chúng tôi chuyển sang chuyện tình yêu vĩnh hằng. Buổi chiều thu hôm ấy tôi chỉ chợt nhận ra thế, rồi lao vào cuộc tìm kiếm, mãi tới hôm ấy chúng tôi mới bàn luận thế nào là tình yêu vĩnh hằng. Hay nói cách khác, đấy là sự thật trong tình yêu. Nàng nói. Tôi bảo nói như thế cũng chỉ là một cách tư biện. Hay là tựa như một dòng sông chảy suốt qua năm tháng, một dòng sông bất tận… Nàng đã tìm được một hình tượng cho sự vĩnh hằng của tình yêu. Còn tôi thì bấy giờ như đang nhìn thấy những năm tháng con sông ấy chảy qua. Vào một ngày đầy nắng gió thì phải, người tôi gặp trên bờ con sông ấy là đến từ một nơi chốn xa xôi, ta, sáng ra nghe núi chuyển mình thì biết là đang trong cuộc tồn tại, người ấy nói, giọng vui như chim buổi sớm, rồi bắt đầu hỏi tôi đủ thứ, anh có biết trời đất rộng bao nhiêu không, tôi nói là có bờ bến, nhưng lại vô cùng, người ấy chợt ngửa cổ ngâm, đi mãi, hề…chẳng tới, ngâm xong thì hỏi tôi có bao giờ nhìn thấy lũ sao ở trên trời cãi nhau hay không, tôi nói là chỉ rặt trông thấy những ánh mắt, người ấy bảo có ý muốn là sẽ   đưa tôi đến chốn ấy cho biết, tôi hỏi chốn ấy là chốn nào, khi anh đã cất tiếng hỏi thì chẳng còn nơi nào cả, người ấy đáp, và biến khỏi bờ sông… Anh đang nghĩ gì vậy? Nàng hỏi đúng vào lúc dường như tôi đang nghe thấy những bước chân ai đó đang vọng lại. Tôi nói là đang nghĩ về việc tôi với nàng đã nhận ra nhau giữa cuộc đời trăm ngả. Nàng chưa kịp tỏ niềm vui trước câu nói của tôi thì trời bắt đầu trút nước. Có mưa, cũng chỉ trong chốc lát. Tôi đưa ra đoán định ấy cốt để cho chúng tôi yên tâm lên đường. Bỡi đã quyết đến cho bằng được đầu nguồn con suối trong chiều hôm ấy, nên chúng tôi cứ dơ đầu ra mà đi trong mưa. Lần này là anh và em sẽ nhìn thấy được con nước đầu nguồn. Tôi nói khi dìu nàng   qua một bến suối có nhiều đá cuội, và nước nơi lòng suối như đã bắt đầu chảy mạnh. Cứ nghĩ mưa mùa hạ là chẳng đáng kể, nên chúng tôi thấy rất vui khi phải đội mưa mà đi như thế. Trời đất đã cho ta thêm những chi tiết của tình yêu. Tôi nói trong niềm cảm hứng về cơn mưa bất chợt. Và nàng cũng bất chợt rú lên. Tiếng kêu của nàng lập tức bị nghẽn lại trong mưa. Chẳng biết là vấp ngã thật, hay là nàng cố tạo ra vấp ngã để củng cố cho sự trường tồn của tình yêu. Tôi dìu nàng đứng lên, còn nàng thì bá vào cổ tôi, cũng vẫn là cung cách truyền thống trong tình yêu của loài người, chỉ có điều là đang xảy ra trong thời đại con người dường như đang đuối sức trong công cuộc xóa bỏ các thứ hố ngăn cách giữa con người với con người. Mưa cho nguội đi các thứ phức tạp nhiêu khê. Tôi nói thế vì chợt nghĩ đến trận mưa bốn tỉ năm trước. Mưa cho tan đi niềm kiêu căng kỳ quái của con người. Nàng tiếp lời tôi. Tôi hỏi có phải là nàng đang nghĩ về những biến cố chúng tôi vừa trải qua hay không? Mực nước con suối bất chợt dâng lên rất nhanh làm chúng tôi thấy lo. Lúc nước ngập tới rốn, thì tôi và nàng quyết định hủy bỏ chuyến đi. Ta phải quay về thôi. Tôi nói. Và nắm lấy tay nàng để cùng lội đi trong dòng nước chảy xiết. Dự định của tôi với nàng là quay lại đơn vị khảo sát địa chất, chờ hết mưa, lại đi nữa. Nhưng bấy giờ   tựa như có một dòng suối nào đó từ trên trời đổ xuống con suối đó, nếu không phải thế thì nước ở đâu chỉ trong tức khắc đã   ngập đến ngực, rồi đến cổ của chúng tôi. Anh phải cõng em thôi. Tôi nói. Và chưa kịp cõng nàng   thì trời đất đã bắt chúng tôi phải lìa xa nhau. Nàng trôi ở đằng trước. Tôi trôi ở đằng sau. Em chết mất. Nàng chỉ kịp nói thế. Và bị dòng nước cuốn phăng đi. Dốc hết cả sức lực, tôi lao theo nàng. Bấy giờ thì tôi nhìn thấy quá rõ cái tương lai chẳng mấy tốt đẹp của chúng tôi. Nên đã đi đến quyết định có chết là phải chết cùng nàng. Nhưng rồi tôi cũng chẳng thể thực hiện được cái quyết định đó. Bỡi con nước đã đẩy tôi dạt vào bờ. Có nghĩa là không chết. Còn nàng thì chẳng hiểu là con nước cuốn về đâu.

 

hai mươi mốt.
gương mặt trần gian. 

     Bấy giờ tôi cũng có nghĩ đến chuyện phải nhảy xuống nước trở lại để chết cùng nàng. Nhưng rồi cái ý nghĩ nàng cũng dạt vào bờ như tôi, đã khiến tôi dừng lại chuyện chết. Khi nghĩ là nàng còn sống, tôi lập tức cảm thấy những gì chúng tôi vừa trải qua giống như một cuộc thử thách các vị thần đã bày ra trong các cuộc tình cổ xưa. Bấy giờ, bốn phía chỗ tôi ngồi là một cõi trời đất bất an. Mưa đã tạnh từ lâu. Nhưng nước nơi lòng suối vẫn tiếp tục gào réo. Và rừng cây sâu thẳm thì như đang chờ chực nuốt lấy tôi. Để xua nỗi sợ hãi, tôi chỉ còn cách ngồi yên nơi bờ suối mà nghĩ đến nàng. Vừa dứt ý nghĩ này là tôi lại chuyển sang ý nghĩ khác. Tất cả đều là những giả sử về nàng. Giả sử nàng cũng dạt vào bờ như tôi. Và khi tỉnh lại, thấy mình ở giữa rừng đêm, nàng đã kêu gào thảm thiết. Giả sử là đã có người trông thấy, và đã mang nàng đi. Để có được một tình yêu vĩnh hằng thì phải vượt qua những gãy khúc của thời gian. Tôi cũng chẳng thể xác định đó là ý nghĩ đang diễn ra trong tôi, hay đó là lời ai cất lên ở đâu đó. Nàng vẫn còn sống, đừng lo. Rõ ràng là có tiếng ai nói. Một người từ trong con nước đang gào réo bước ra. Sau khi rũ sạch nước, người ấy rút từ trong ngực áo ra một vật gì đó tung lên trời. Màu sáng của rừng đêm vừa đủ soi   cho tôi thấy đó là những sợi chỉ nhỏ lóng lánh đang kết bện lại thành những tấm thảm đỏ thắm, khi tách rời ra, khi nhập lại thành hình dạng một cuốn sách. Nhưng ông là ai? Tôi đánh bạo hỏi. Và phân vân chẳng biết hỏi vậy đã hợp lẽ chưa, bỡi tôi không thể xác định kẻ đang ở trước mặt mình có phải là một con người hay không, và nếu là người thì già hay trẻ. Chính loài người lũ ngươi đã mang ta đem xếp vào kho huyền thoại. Người khách lạ trong đêm nói. Là nguyệt lão! Tôi vui mừng đến nỗi muốn hét to lên cho cả đất trời nghe thấy là mình đã gặp được thần tình yêu. Thưa, có chắc là nàng còn sống hay không? Tôi cứ muốn nghe thần nhắc lại việc nàng còn sống trên đời. Khi chúng tôi đã đi khá xa suối nước, thần tình yêu rỉ tai tôi, rằng tôi với nàng vừa mới vươn mang nợ trần gian thì làm sao nàng chết được. Tôi hỏi có phải việc này đã được ghi vào sổ nhân duyên hay không. Thần tình yêu bảo chuyện ấy không còn thuộc thẩm quyền của mình, và hỏi lúc nãy tôi có nhìn thấy sợi tơ hồng với sổ nhân duyên không. Rồi bắt đầu giảng cho tôi nghe vì sao cuộc tình của chúng tôi không còn nằm trong vòng cai quản của thần.

…Ta có mang theo chỉ hồng với sổ nhân duyên thì cũng chỉ là mang theo một thứ kỷ niệm đầy hương sắc. Cái giống hữu tình của trần gian một thời đã làm xao động không ít cuộc sống của một vị thần cứ tưởng chuyện của con người là chẳng ăn thua chi đối với cõi vĩnh hằng. Vào những lúc bủa xong ngọn lưới tình là ta hay ngồi ngắm những âu yếm lứa đôi. Sự cuồng nhiệt của giống người được phô bày trong những cơn đam mê bất tận là cũng dữ dội như sấm sét trên trời. Vào những lúc ấy thì ta, vị thần tạo tác lứa đôi, không nén được tiếng thở dài luyến tiếc vì sao ta lại là kẻ ờ trên trời? Cứ thế. Rồi ta đã trở thành kẻ đa tình lạc điệu. Sợi chỉ thắm chẳng còn thiêng. Sổ nhân duyên mở ra lắm trang trắng. Dường   trần gian mỗi ngày mỗi thêm những trục trặc trong tình ái. Và con người thì như không còn muốn nghĩ đến thứ quyền lực có tên là duyên nợ. Ta, kẻ ở trên trời, làm sao lại không nhìn thấy những chuyện ấy? Cho nên, bấy lâu nay ta đã tự rời khỏi thứ quyền lực thần thánh của mình, để chu du trong trời đất.

Như vậy không phải là thần đến để giúp cho kẻ này gặp lại người yêu của mình? Tôi nóng lòng, xen vào hỏi. Thần tình yêu bảo là đương trên đường chu du, thì nhìn thấy có hai kẻ ngụp lặn trong cuộc trần ai, nên đã dừng lại. Nhưng tại sao bọn ngươi phải đi tìm con nước đầu nguồn? Đột nhiên thần tình yêu lại hỏi đến cuộc thể nghiệm của chúng tôi. Lại   một cuộc thử thách nữa? Tôi nghĩ. Và, bằng một cách úp mở, tôi đã nói với thần rằng để có được tình yêu vĩnh hằng là phải có bàn tay tạo tác của thần thánh. Thần tình yêu liền mở toang sổ nhân duyên ra, như thể cho tôi thấy thần chẳng còn dính dáng với bất cứ thứ tình yêu nào ở trần thế. Quả chỉ nhìn thấy những trang trắng. Và thần lại nói với tôi về chuyện con người.

…Bên kia tình yêu là một thế giới có vẻ man rợ hơn tất cả mọi thứ man rợ. Ngay tự buổi đầu của lịch sử loài người, ta đã nhìn thấy các bộ tộc chìm đắm trong thứ thế giới ấy. Tất cả hãy dừng lại đi thôi ! Là thần tình yêu, bấy giờ ta đã khuyên bảo con người. Nhưng có vẻ đã trở nên vô ích. Bỡi hình như thế giới ấy là một phần của sự cấu thành sự tồn tại của con người. Nó, cái thế giới man rợ ấy, hình như đã được khắc sẵn cái tên man rợ : lòng thù hận. Các cuộc chiến tranh bộ tộc cứ tiếp tục diễn ra trên khắp mặt đất. Còn ta, thì vẫn mang sổ nhân duyên với chỉ thắm đi hết châu lục này đến châu lục khác. Nhân danh thần tình yêu, ta vẫn khuyên con người hãy rời bỏ cái thế giới man rợ ấy đi. Nhưng dường như loài người là chẳng nghe thấy lời ta. Các cuộc chiến cục bộ giữa các bộ tộc, giữa các dân tộc, đã chuyển sang cuộc chiến toàn thế giới. A, lẽ ra là loài người các anh đừng làm ra ta. Đám súng đạn, sau khi làm xong công việc giết người, là quay sang cười cợt với con người. Ta sốt ruột nói với loài người, rằng nếu đã lỡ làm ra súng đạn, thì cứ để mặc chúng rỉ sét. Nhưng cuối cùng chỉ có sổ nhân duyên với chỉ thắm của ta là loài người để rỉ sét trong kho huyền thoại, còn súng đạn thì trở thành hàng hóa gần sánh ngang cơm gạo. Ta không biết là ngày nay lũ thú trên rừng có muốn chia nhỏ bầy đàn của mình hay không. Nhưng   loài người thì ta thấy dường như là muốn đi ngược lại tiến trình tiến hóa của mình. Nếu không phải là lòng thù hận thì cái gì đã khiến cho con người không còn muốn sống chung trong bầy đàn cũ? Con người là đang hô hoán lên khắp nơi rằng mình đang toàn cầu hóa. Nhưng máu lại đang chảy rất nhiều trong các cuộc chiến nhằm để chia tách một quốc gia cũ ra thành nhiều quốc gia mới. Con người là đương tự hào với nhau rằng mình đương củng cố ngôi nhà chung của mình trên mặt đất. Nhưng ta nghe dường như đây là thời mà một tay đại bịp cũng muốn dựng tượng đài riêng cho mình? Dường như đây là thời trăm nhà đua tiếng, kẻ đê hèn cũng có thể nói được lời cao cả?

 

Hóa ra trí tưởng tượng của tôi đã cứu tôi thoát khỏi cơn sợ hãi.

Khi mặt trời ửng sáng ở phương đông thì rừng cây có vẻ dữ tợn trong đêm bỗng trở nên thân thiết với tôi. Có vẻ như vẻ đẹp hùng vĩ của tự nhiên là để bổ sung cho câu chuyện gặp gỡ kỳ thú trong trí tưởng tượng của tôi ở trong đêm, cuộc gặp gỡ vị thần chuyên rao giảng lòng yêu thương.

 

hai mươi hai.
khốn khổ 

     Chuyện nàng còn sống cũng giống như chuyện các nhân vật trong các tiểu thuyết cổ điển : Nàng bị nước đẩy   vào bờ, có người trông thấy, và cứu được. Còn việc tôi tìm thấy nàng thì cũng là lẽ tất nhiên. Có nghĩa, bất cứ người nào rồi ra cũng tìm được nàng. Cứ theo bờ con suối, tôi đi về phía hạ nguồn, đi tới đâu dò hỏi tới đó. Bấy giờ trong suy nghĩ của tôi có hai dự định thật rõ ràng. Một là khi gặp lại nhau, tôi sẽ ôm nàng thật lâu, để rũ bỏ hết những lo lắng. Và hai là, cám ơn những người đã đem nàng lên khỏi con suối, rồi gạt nước mắt, mang xác nàng về lại nơi ngôi làng có con sông ấy chảy qua. Là kể cho hết sự tình vậy thôi, chứ dự định thứ hai mà xảy ra thật, thì chưa chắc tôi có đủ sức để kể lại cuộc thể nghiệm về tình yêu này.

Mặc kệ giữa ban ngày ban mặt có bao nhiêu con mắt nhìn mình, tôi đã ôm nàng thật lâu. Niềm vui lớn như làm tắt mất hết ngôn ngữ của chúng tôi. Có nghĩa, tôi và nàng chỉ ôm nhau, chẳng nói được lời nào. Phút giây chúng tôi gặp lại nhau quả đã thuyết phục được tình cảm của người làng ấy. Người ta xì xào bảo đấy là một cuộc tình rất đẹp, rằng nàng phải sống để hai người gặp lại nhau là phải. Nhưng do đâu hai anh chị lại phải lặn lội đi tìm con nước đầu nguồn   con sông đó? Ai cũng hỏi chúng tôi câu ấy. Sau khi được người làng cứu sống, nàng đã nói thật là mình với người yêu đi tìm con nước đầu nguồn con sông ấy, rồi gặp nạn. Và lúc tìm thấy nàng, tôi cũng khai thật như thế với những người đã cứu sống nàng. Đấy là bí mật của tình yêu. Chúng tôi nói với người làng như thế. Trước đó, trong cuộc thể nghiệm tình yêu, tôi và nàng cũng nói thế, và chẳng việc chi xảy ra. Nhưng ở làng ấy thì cái bí mật của tình yêu đã làm cho chúng tôi khốn khổ.

Con suối lớn khi chảy đến ngôi làng đó thì không còn gọi là suối, mà gọi là sông.   Đây là làng quê thuộc miền bán sơn địa, có nghĩa từ làng   lên núi thì gần hơn là xuống đồng bằng. Tôi cũng chẳng biết khái niệm siêu hình ấy là từ các làng thiểu số trên núi theo con nước suối mà xuống, hay từ nền văn minh hỗn tạp dưới trung nguyên theo những người buôn thượng, hay theo những tay hảo hán đi đồn gỗ trộm, đi tìm trầm, mà lên đây. Vẫn ứng dụng những thành quả văn minh đương đại vào công cuộc làm ăn, và vẫn đem hết sức lực ra làm, song làng vẫn nghèo. Là do đất đai khí hậu không thuận lợi trong việc làm ra cơm áo? Là do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác, như trình độ dân làng có hạn, như không có đồng tiền trong tay để làm ra những đồng tiền khác? Mọi cách giải thích có tính chất hiện thực đều không thuyết phục được người làng. Ngày nay, mỗi lần nói đến nghèo, người làng ấy vẫn nghĩ là mình đang thừa kế thứ di sản chẳng mấy tươi sáng của cha ông để lại, tức là tiếp tục cái số con rệp. Ở chỗ anh chị có nghe nói về số con rệp hay không? Mới đầu người làng có hỏi tôi với nàng thế. Tất nhiên là chúng tôi chẳng lạ gì mấy tiếng ấy. Có điều, đó chỉ là cách nói đùa khi không đạt được điều gì như dự định. Nhưng với người làng ấy, số con rệp đã trở thành biểu tượng của bất hạnh. Có điều lạ là làng thuộc loại nghèo nhất nước, nhưng tôi thấy như chẳng có ai tỏ ra buồn khổ. Người ta có theo tra hỏi chúng tôi tại vì đâu bọn họ   phải chịu số con rệp thì cũng chỉ để thõa mãn sự hiểu biết. Nỗi bất hạnh được coi như một thứ bí mật mà người làng ấy muốn khám phá. Và theo bọn họ, chúng tôi đã biết bí mật của tình yêu, thì phải biết mọi thứ bí mật trên đời này. Tôi với nàng không muốn trốn đi vì sợ mang tiếng là kẻ vô ơn. Nhưng ngày nào còn ở lại ngôi làng ấy thì chúng tôi còn bị đám dân làng quần đến lã người. Sau một ngày làm lụng vất vả, cứ tối đến là bọn họ tụ tập đến chỗ chúng tôi. Anh chị có tin là mùa bắp năm ấy, cả mấy trăm hắc ta ruộng bắp làng này, đến lúc thu hoạch, bắp chỉ có cùi mà không có hạt? Anh chị có tin là mùa mía năm ấy nhà máy sản xuất đường hủy hợp đồng mua mía thì ở làng này, trong những người vay tiền ngân hàng để trồng mía, có người đã trốn nợ bằng cách uống thuốc sâu, chết? Anh chị có tin là đời cha ông bọn tôi, có năm chỉ ăn toàn củ mài đào trên núi ? Còn theo lời truyền thì có thời tổ tiên của người làng này chỉ có quần chứ không có áo. Những câu chuyện bi thảm được dẫn ra ở đây là nhằm minh chứng cho sự tồn tại một cách dai dẳng của bất hạnh. Tôi cố làm cho mọi người thấy rằng sự bất hạnh, hay nói theo cách của người làng là số con rệp, là một trong muôn ngàn cách có mặt của con người trong trời đất. Có kẻ có mặt trong niềm hạnh phúc, có kẻ có mặt trong nỗi khổ đau, không có chuyện   không có hạnh phúc, cũng không có chuyện không có khổ đau, không   anh này bất hạnh, thì anh kia bất hạnh, nó, cái gọi là số con rệp ấy là sự ngẫu nhiên trong cuộc sống. Nhưng bọn họ bảo chẳng có ngẫu nhiên nào hết, đến mùa đông là có mưa, đến mùa hè là có nắng, hễ sinh ra ở làng ấy là chịu số con rệp. Nàng hỏi có phải bọn họ muốn nói đến một thứ luật trời hay không, thứ luật lệ còn có tên là định mệnh. Lập tức, bọn họ siết chặt vòng vây. Anh chị phải nói cho bọn này biết ai là kẻ nắm giữ luật lệ ấy? Mọi người nhao lên hỏi, có vẻ háo hức, làm như tôi với nàng là mới từ thượng giới xuống. Mà có từ thượng giới xuống thì chưa chắc đã giải nổi thứ tra vấn mấy nghìn năm qua các nền văn minh của loài người vẫn chưa giải nổi. Ai nắm giữ luật lệ là tùy theo cách nghĩ của mỗi người. Nàng nói cốt để phá vây. Không ngờ vòng vây lại siết chặt hơn. Tôi nói vòng vây siết chặt hơn là do bấy giờ một người đưa ra một câu hỏi thì lập tức những người khác liền diễn dịch thành những câu hỏi khác nữa. Có quả thần thánh nắm giữ chuyện bất hạnh ở thế gian này hay không? Có một người hỏi thế. Và lập tức bọn họ đưa ra những nghi vấn về thần thánh mang màu sắc thế tục. Hay có một vị thần vốn thù ghét người làng này, đã nhập vô đất đai, khiến cho bắp chỉ có cùi mà không có hạt? Hay là thấy mấy người trồng mía chỉ nói toàn chuyện khoa học kỷ thuật, các vị thần thánh mới tức mình xua ông nhà máy đường làm ăn thua lỗ, để dẫn đến chuyện không mua mía của người trồng mía ? Thời mà cha ông bọn này chỉ ăn củ mài để sống có phải là thời thần thánh nhập vô các vị vua quan, khiến các vị chỉ lo chuyện bòn rút của dân mà không lo việc cơm áo cho dân? Tôi với nàng đã điên đầu với những câu hỏi như thế. Có vẻ như khi vây hỏi chúng tôi về nỗi bất hạnh, bọn họ đã từ cảnh trí siêu hình tụt xuống cảnh trí trần thế? Quả là tôi với nàng đương không cũng rơi vào số con rệp. Nạn này chưa qua, nạn khác đã ập tới. Có một ông đại gia đã mò đến chỗ chúng tôi. Là người làng bên, học hành cũng chỉ mới tới tiểu học, bỗng bỏ quê đi nơi khác làm ăn, lúc quay về thì thành tay tỉ phú. Người làng ấy đã rỉ tai chúng tôi. Tay tỉ phú đến gặp tôi với nàng là để hỏi về cách giữ sự giàu có, cái bí mật trong cầm nắm của cải. Đến nước ấy thì tôi với nàng phải nói với ông ta rằng ngoài bí mật về tình yêu, chúng   tôi chẳng còn biết thứ bí mật nào nữa trên đời này. Các vị ấy đang ra giá với ta đấy! Tay tỉ phú nói với người làng. Có nghĩa ông ta cho rằng chúng tôi muốn ông ta phải nói ra khoản tiền ông ta phải chi trả. Dường người làng ai cũng ghét ông ta, nên cứ theo đốc thúc chúng tôi là hãy đưa ra giá cả đi. Vào một đêm, trong làng có cuộc sinh nở, chúng tôi ngồi nghe tiếng khóc trẻ thơ một chặp, rồi dắt nhau trốn khỏi nơi người ta vẫn cố tình nghĩ chúng tôi như những nhà tiên tri thời hiện đại. 

 

hai mươi ba.
một cuộc đuổi bắt. 

Tôi và nàng dừng lại ở vùng đất ấy là để lấy sức cho một chuyến đi mới. Đang cuối hạ, nhưng trời đất có vẻ sang thu : Âm ỉ trong màu nắng thứ nỗi buồn kỳ bí.    Em cảm thấy có gì hơi khác thường đang xảy ra ở đây. Nàng nói. Tôi hỏi căn cứ vào đâu để nói thế. Nàng bảo ở trong ánh mắt những ông già bà già sắp từ giã thế gian. Chỉ mấy hôm sau thì chúng tôi rõ mọi chuyện.

Vào một ngày có lũ khỉ đùa dỡn trên cây còn lũ chim bồ chao thì làm như núi rừng là của chúng, một người đàn ông và một người đàn bà ngồi ở nơi gộp đá ấy nhìn trời đất đang chìm trong hoang dã. Làng xóm của ta là ở đây. Người đàn ông nói. Người đàn bà lấy một viên sỏi cuội vạch lên gọp đá như viết lên một lời thề. Như thế là lũ khỉ và lũ chim bồ chao phải chuyển vào trong rừng sâu. Bỡi   người đàn ông và người đàn bà đã mang vào đây những thành tựu của nền văn minh sắt của loài người : Rựa và cuốc. Lúc bấy giờ thì cổ xe lịch sử đã chuyển văn minh cơ khí đến nhiều nơi trên mặt đất, nhưng chuyện người đàn ông và người đàn bà là chuyện ở đây. Việc trồng trọt ở đây là theo phương thức cày bằng đao trồng bằng lửa. Ông Adam và bà Evà của thời trồng trọt vừa đốt rừng làm đất trồng lúa, vừa sinh con đẻ cháu, và làm nên làng xóm ( Mới đầu chỉ có hai người, những ông bà già ở đây đều nói với chúng tôi thế ) Cho đến một ngày đám con cháu của họ đã chế ra được cái xe múc nước bằng tre gỗ để múc nước của con sông ấy đổ lên ruộng. Như thế là ruộng rẫy đã trở thành ruộng nước. Nhưng không phải nói múc nước là múc nước. Mà phải đốn cây rừng làm bờ đập ngăn nước con sông ấy lại, để cho chảy vào chỗ đặt xe nước. Như thế là cái bánh xe lịch sử đã chuyển nền văn minh lúa nước đến nơi đây. Cho đến một ngày thì đám con cháu ông Adam và bà Eva thời trồng trọt đã bỏ đi cái xe nước bằng tre gỗ và bỏ đi cái bờ xe nước làm bằng cây rừng, làm lại cái đập nước bằng xi măng cốt thép, để đưa nước con sông ấy lên ruộng đồng, biến đất trồng lúa một vụ thành hai ba vụ ( Những ông bà già ở đây không thể diễn tả   lịch sử văn minh của loài người đã diễn ra ở đây, chỉ nói theo cách nôm na, rằng nhờ trời phù hộ nên làng xóm ăn nên làm ra ) Cho đến một ngày, một người con trai, con cháu ông Adam và bà Eva thời trồng trọt, nhân danh là kẻ được hấp thu nền văn minh hiện đại, rao giảng bài học về sự trồng trọt, coi như là được rút ra từ khoa nông nghiệp đương đại, rằng đất đai cũng tựa con người, phải ngủ nghỉ mới đủ sức làm lụng, tức phải rút ba vụ xuống còn hai vụ trồng trọt mỗi năm, rằng đất mà thở được thì sẽ cho nhiều thóc lúa hơn trước. Chẳng rõ văn bản khoa học về nông vụ là như thế nào, nhưng qua cách diễn đạt của anh ta, khoa học tựa   cuốn sách ước. Muốn có ba tấn là có ba tấn. Mỗi vụ chỉ thu hai tấn nếu mỗi năm làm ba vụ. Nhưng sẽ thu ba tấn nếu mỗi năm chỉ làm hai vụ. Muốn có ba tấn là có ngay thôi. Dường trong suy nghĩ con người là luôn tồn tại hình ảnh một cuốn sách ước. Cho nên, khi nghe anh ta diễn tả như thế thì có quá nhiều người đang mơ ước sự thay đổi trong nghiệp cày cuốc lập tức hưởng ứng. Nếu chăm bón theo khoa học, không chừng mỗi vụ thu được bốn năm tấn, chứ chẳng phải là ba. Người ta vừa ước mơ, vừa nâng ước mơ của mình lên. Nhưng những người già sắp rời bỏ trần gian và những người chẳng còn thấy niềm mơ ước nào trong nghiệp cầm cày của mình thì bảo trời không còn phù hộ họ nữa. Cái lý của những người ấy là thuộc cách tính toán truyền thống: Làm hai vụ thì nhất định là thu ít thóc lúa hơn là làm ba vụ. Và, nếu làm ba vụ thì mỗi ngày ăn ba chén, nhưng làm hai vụ thì phải hạ xuống còn hai chén !

Dòng sông ấy, một phụ lưu nữa của con sông quê nàng, lại chứng kiến một sự cố nữa trong dòng chảy của văn minh nhân loại. Nếu những con người nhiều mơ ước mà thắng, thì mùa tới đất sẽ được nghỉ ngơi, và theo người con trai ấy, sau đó đất sẽ sản sinh nhiều lúa thóc hơn xưa. Còn như những ông bà già sắp từ giã thế gian mà thắng, thì mọi thứ sẽ như cũ, tức, ngày vẫn hai bữa lưng lửng bụng, như người con trai ấy nói. Nó đang bị ma ám đó. Người cha của người con trai ấy nói với chúng tôi. Ma ông nói đây là nền văn minh đương đại. Tôi bảo, có bị khoa học ám ảnh thì cũng tốt thôi. Ông ta lập tức phản đối. Rằng con trai ông là đang bị thứ chức việc làng quỉ quái ấy ám ảnh. Sắp tuổi ba mươi, đã một vợ một con, đang chí thú cày cuốc thì bỗng được cử vào một khóa tập huấn viên trồng trọt, tập huấn viên là đang cầm cày thì được triệu vào một khóa học cả lý thuyết cả thực hành, ví như học hỏi về một giống lúa nào đó, thì trước tiên phải nghe ông thầy giảng về giống lúa đó, rồi sau đó là phải đi xem tận mắt giống lúa đó ở một cánh đồng nào đó, không phải là xem không, mà còn được nghe những người trồng giống lúa đó nói về giống lúa đó, xong yên thì quay về, đem những gì nghe thấy truyền lại cho những người cầm cày khác, đích thị là một thứ học tâm truyền, và quả tình là phải dùng đến thứ từ Hán Việt là tập huấn viên mới diễn được thứ công việc dài ngoằn như thế, và nếu như cứ tiếp tục cày cuốc như thế thì chẳng sao, đằng này bỗng được cử đi học khoa học do nhà nước mở như thế, người con trai sắp tuổi ba mươi bỗng thấy mình trở nên quan trọng đối với cái thế giới anh ta đang sống trong đó. Thằng đó cứ tưởng là cả đời nó sẽ giữ cái chức tập huấn viên quỉ quái đó. Người cha của người con trai ấy nói với chúng tôi. Tôi bảo dù chỉ mới thu nhận được một ít hiểu biết về trồng trọt thôi, nhưng phải nói đấy là niềm tự hào của một người đang lam lụ với ruộng vườn. Tôi cố nói cho người cha hiểu được niềm hứng khởi của con trai mình. Nhưng ông ta nói con trai ông mới từ trong buội nhảy ra mà đi nói chuyện khoa học thì quả là sự thế đảo điên. Những người nghĩ ngợi theo kiểu truyền thống quyết cho rằng chẳng thể có chuyện chỉ làm hai vụ mà lúa thóc lại nhiều hơn làm ba vụ. Nhưng ai đời khoa học đã bưng chén cơm đưa cho ăn, lại không ăn. Những người muốn có sự đổi đời lại nghĩ thế.

Tôi và nàng dừng lại ở vùng đất ấy đúng vào lúc sắp sửa làm vụ ba. Có nghĩa là vào thời điểm mà những người cầm cày ở đây đang đứng trước thứ chọn lựa có tính cách sinh tử. Thì chuyện   thóc lúa đối với người cầm cày không phải chuyện sinh tử là gì? Một bầu không khí ngột ngạt nặng nề đang ập xuống xóm làng.

Những người cố giữ nếp cày cuốc truyền thống, kẻ đi mua sắm trạnh cày, lưỡi cày, người đẽo lại cái ách cày, cái náp cày. Sao? Không làm vụ ba, phải không? Những người tin vào khoa học thì cổ vũ nhau . Chưa có ai xuống đồng. Chỉ là dòm chừng nhau. Nhưng chúng tôi cảm thấy như đang có một cuộc chiến đang xảy ra giữa những con người vốn là đồng điệu. Người cha của người con trai ấy đi làng trên xóm dưới, thuyết phục mọi người đừng bỏ vụ ba, nó là thằng điên, đừng nghe, người cha nói về con trai mình, ông cố thuyết phục mọi người trong nỗi lo sợ về một hậu quả bi thảm có thể xảy ra với cả xóm làng lẫn con trai ông, lúa hai vụ thất thu, đói, có thể là người ta sẽ giết chết con trai ông, kẻ rao truyền khoa học. Đã tận mắt nhìn thấy nơi nào làm hai vụ mà thu nhiều hơn ba vụ chưa? Tôi hỏi thử. Còn nàng thì hỏi có nơi nào đã thất bại trong việc chuyển đổi mùa vụ hay chưa? Anh chàng tập huấn viên chỉ cười thay cho việc trả lời những chất vấn ấy. Quả tình, ba mươi ngày thọ giáo văn minh đương đại, người con trai sắp tuổi ba mươi ấy chỉ có thể nối thêm vào kiến thức cày cuốc của mình một thứ hiểu biết nửa vời. Nhưng có lẽ là ước muốn đổi đời khiến chàng trai vốn lam lụ ấy cũng đi làng trên xóm dưới như cha mình, nhưng là để tuyên truyền cho khoa học. Chưa có bi thảm nào xảy ra với anh ta, nhưng lại xảy ra với chúng tôi. Thấy tôi với nàng trò chuyện với cả người con trai lẫn người cha của người con trai, cả hai phe theo và không theo khoa học đều tỏ ra bực tức. Đi tìm con nước đầu nguồn để làm cái quái gì? Tự dưng ở đâu đến   xía vào công việc người ta? Những câu nói ấy đã đến tai chúng tôi. Tôi với nàng cứ nói thật là đang đi tìm con nước đầu nguồn con sông quê nàng. Nhưng mọi người chẳng tin, lại tỏ ra khinh bỉ, vì nghĩ chúng tôi đang là cái bung xung trong cuộc đối đầu của những người làng. Nàng thì mặc ai nói sao thì nói, muốn ở lại nơi ấy coi thử ai thắng ai. Cuộc chiến cũng sắp kết thúc, bỡi những người chống đối việc chuyển đổi mùa vụ sẽ xuống đồng nay mai. Nàng nói. Tôi thì nghĩ phải để nàng nghỉ ngơi thêm sau lần thoát chết, nên đã chìu theo ý nàng. Nhưng vào một hôm trời yên biển lặng, anh chàng tập huấn viên đã thông báo cho chúng tôi biết là sắp xảy ra bão tố. Có lẽ do căng thẳng đầu óc, những ông bà gìa sắp từ giã thế gian đã trù tính nhau là sẽ kéo đến chỗ chúng tôi, dùng chổi để lùa chúng tôi ra khỏi làng. Hoảng quá, tối hôm ấy, bóng đêm vừa đổ xuống, tôi với nàng đã lẻn ra khỏi làng.

Chúng tôi rời vùng đất ấy trong lúc cuộc đuổi bắt cơm áo vẫn còn diễn ra dưới bầu trời   văn minh đương đại.

 

hai mươi bốn.
sông nước.

Sáng hôm đó tôi với nàng còn đang phân vân có nên đi đầu nguồn con sông đó hay không thì chợt thấy có con thuyền đang ngược về phía thượng nguồn. Nhánh phụ lưu đó phát nguyên tận vùng rừng núi phía tây nam, mãi gần tới quê nàng mới đổ vào con sông chính chảy qua quê nàng. Làm như biết trước mọi sự, người chèo thuyền chèo thẳng vào chỗ bờ sông chúng tôi đang đứng, hỏi có đi thượng nguồn thì hãy xuống thuyền mà đi. Ngay từ phút đó tôi đã thấy có gì hơi khác thường ở người chèo thuyền. Nhưng nàng thì có lẽ vì mừng gặp được thuyền, cứ theo hỏi người chèo thuyền đủ thứ chuyện về sông nước, rằng ông từ đâu đến lại chẳng chở thứ chi, rằng đi đến đâu thì quay lại? Cốt yếu là nàng sợ không nhìn thấy được con nước đầu nguồn của dòng sông ấy. Sông nước hữu tình thì làm sao ta lại đi vô tình với người đời! Người chèo thuyền nói. Nàng chợt huých vào tôi, cú huých có phần khá mạnh, khiến con thuyền hơi lắc lư. Cứ sợ người chèo thuyền đọc được những ý nghĩ không mấy hay ở nàng, nên tôi phải nói đỡ là nàng không mấy quen đi thuyền. Không sao…Người chèo thuyền nói, và ngước mặt nhìn trời. Tôi hỏi có phải ông vẫn thường qua lại trên con sông ấy hay không? Ông ta bảo nói thường cũng được, mà nói không thường cũng được. Tôi lại tiếp tục hỏi ông về quê quán, nhà cửa, về chuyện kiếm sống trên sông, giành việc chuyện trò với ông, vì sợ nàng lại đi khiêu khích một người chèo thuyền thích ăn nói theo kiểu văn vẻ của một khách văn chương. Nhưng rồi tôi cũng không ngăn được nàng. Thường là sao? Mà không thường là sao? Nàng hỏi. Người chèo thuyền bảo, thường là như khi ông qua lại trên con sông quê nàng. Ta qua lại nơi ấy không biết bao nhiêu bận, sông nước thì có vẻ như đứng yên một chỗ, còn núi non tựa những áng mây sà xuống ruộng đồng. Ông nói. Tả sông núi quê nàng như thế là rất chính xác. Núi mọc ở trên đồng, còn   nước trên sông, chỉ trừ mùa bão lũ, lúc nào cũng lững lờ trôi. Tôi cảm thấy nghi hoặc trong lòng, và hỏi ông ta có phải là kẻ sĩ bất đắc dĩ ra kiếm sống hay không? Người chèo thuyền có vẻ cảm kích trước tra vấn của tôi. Và bảo cứ theo cách hiểu của con người thì ông là kẻ bất tử.   Tôi hơi giật mình, vì một người chèo thuyền mà lại nói ra được những lời như thế. Còn nàng thì vẫn cái ý khiêu khích ấy, hỏi ông qua lại trên con sông quê nàng vào những giờ nào mà nàng chẳng bao giờ trông thấy? Và có phải người bất tử thì kẻ khác khó lòng nhìn thấy hay không? Người chèo thuyền chợt cho thuyền rẽ vào bờ, rồi bảo chúng tôi chờ ông một lát. Tôi đoán là ông vào làng để tìm thêm thức ăn cho chuyến đi dài trên sông. Quả như tôi nghĩ, nàng trù tính sẽ tạo ra thứ không khí vui vẻ trên sông nước bằng cách bịa ra một câu chuyện cổ tích mà nhân vật chính là một người chèo thuyền bình dân thích ăn nói theo kiểu bác học. Không được đâu, em đã biết tung tích của người ta thế nào mà đi gây chuyện. Tôi cản. Nàng không cãi lại tôi, cũng không nói là chấp nhận ý kiến của tôi. Chỉ cười. Nhưng không phải nàng, mà là người chèo thuyền đã tạo ra cổ tích. Ông ta trở lại thuyền với một   thiếu nữ trẻ đẹp như người trong tranh. Cứ gọi em nó là cô gái đàn nguyệt. Ông nói. Theo lời giới thiệu này thì chúng tôi mặc nhiên hiểu thiếu nữ là một ca kỹ chơi đàn nguyệt, có điều chẳng thấy đàn cầm đâu cả. Nhưng liền sau đó thì một đứa bé, trông cũng có vẻ như người trong tranh, mang đàn tới. Chị với ông thượng lộ bình an. Đứa bé trao cây đàn nguyệt cho thiếu nữ, nói, rồi quay lại nẻo cũ. Cứ tưởng nàng cũng như tôi, là đang ngạc nhiên trước những gì đang diễn ra. Nhưng không phải. Chắc ca lâu cũng gần đây thôi? Nàng nhìn thiếu nữ, hỏi, mỉm cười đầy ẩn ý. Nói là gần cũng được, mà nói là xa cũng được. Người chèo thuyền đáp lời nàng. Còn cô gái đàn nguyệt thì ngồi xuống lòng thuyền, bắt đầu so giây. Tôi có cảm tưởng đang nghe thấy những âm vang vọng lại tự buổi khai sinh trời đất. Ta đi thôi. Người chèo thuyền nói, thọc mái chèo xuống nước, cho thuyền lướt nhẹ trên sông. Phải nói đây là lúc chúng tôi thực sự bước vào cổ tích. Cô gái đàn nguyệt tự đệm đàn cho mình hát. Tiếng đàn xé nát cỏ cây. Còn tiếng hát như có năng lực đánh thức những niềm lãng quên cổ kính nào đó.

 

…Ta, một mình nơi sông nước, trần gian mấy nẻo đi về tự buổi hỗn mang. Dẫu là cư ngụ ở trên trời, hay dưới đất, là đều khấp khễnh, kỳ khu. Ai náu mình giữa trần tục, nghìn năm, triệu năm, trải mấy nỗi thăng trầm, cưu mang trời biển, nếu không phải là ta? Lúc loài giống con người chưa nhìn ra được những nét thực của đất trời thì ta là kẻ mang lại cho nhân gian những niềm vui lộng lẫy huy hoàng. Niềm kính ngưỡng thấm đẫm tận chốn cao sơn cùng cốc. Bất kể cơn mưa nào đến sau những nguyện cầu đều gán cho quyền năng sáng tạo của kẻ náu mình trên sông nước. Đôi khi những hốt hoảng lại được gọi to lên thành lời. Bất kể cơn mưa nào đến sau những hốt hoảng của nhân gian đều được coi là ân sủng. Ta lặng lẽ giữa đất trời đón lấy những tôn vinh thần thánh. Niềm kính ngưỡng là đồng nghĩa với phồn thực. Kính ngưỡng đối với ta là đồng nghĩa với sinh sản tràn đầy, đồng nghĩa với sự thêm ra. Con người thêm ra. Tiếng đùa giỡn của trẻ thơ thêm ra. Màu xanh hoa trái thêm ra. Ta, một mình nơi sông nước, nhìn thấy triệu triệu sinh linh mong ngóng về ta. Và làm sao ta lại khỏi nghe thấy những thầm trách. Đôi khi thì chẳng phải thầm trách, mà là oán giận òa vỡ thành tiếng kêu trầm thống. Cái chết là thường hay đến sau những tiếng kêu trầm thống. Ta còn nhớ tận mờ mịt xa xăm, thuở con người còn trò chuyện được với hươu nai trên rừng, thuở con người chưa biết cách thốt lên tiếng kêu trầm thống, thì cái chết đối với con người là lặng lẽ hơn hết thảy những lặng lẽ của trời đất. Ta vẫn còn nhớ thuở xa xăm mờ mịt ấy, khi những cơn mưa bất tận từ trời cao chảy xuống, từ trong đất tuông ra, con người cùng với cây cối trên rừng là lặng lẽ nằm xuống giữa trùng dương vô tận. Chẳng biết thốt nên   tiếng kêu trầm thống, nhưng tri giác đọng lại thành ký ức ngọc bích kim cương, mà mãi triệu triệu năm sau, đám hậu duệ thuộc các nền văn minh sớm nhất của con người vẫn còn nhớ được để thốt lên rằng thuở ban đầu của trời đất là nước…

 

Tôi nghe như có trận đại hồng thủy đang tràn vào lời ca của kỹ nữ. Và thầm hỏi mình, đây có phải là chuyện của trần gian? Khúc hát nói về một kẻ sống trên sông nước, mà sao như một vị thần? Còn nàng, có lẽ lời ca kỳ tuyệt kia đã làm tan hoang cái tính trời thích trêu chọc kẻ khác bấy lâu vẫn lẩn quẩn với nàng. Lần này là nàng cũng huých vào tôi, nhưng rất nhẹ, ý bảo là hãy lắng nghe. Quả chẳng còn có chỗ để cho tôi nói ra những băn khoăn của mình.

 

…Nhưng chẳng phải mãi mãi là ngọc bích kim cương. Con người là biết lần dò ra ánh sáng từ những ký ức cổ xưa. Chiêm ngắm sắc màu của một áng mây trôi. Chiêm ngắm cách đi về của một bầy ong hút mật. Chiêm ngắm sự lặn ngụp của đám sao ở trên trời, của đám rong rêu ở dưới nước. Triệu năm nghìn năm trôi qua, ngọc bích kim cương bỗng hóa nên lời. Gọi được tên những cuộc hôn phối giữa ngày và đêm. Gọi được tên kẻ thủ phạm gây nên các cuộc rơi rớt, các cuộc trốn chạy, gây nên mưa sa bão táp. Ta rất vui khi con người bảo vẻ đẹp của các sự vật là nằm trong chiêm ngắm của trí tuệ con người. Quả là trăm hoa đua nở. Ta nhìn thấy đi lại bên bờ các con sông lớn trên mặt đất những con người có dáng đi của các vị thần. Chưa nghe thấu hết những tiếng nói của đất trời, nhưng quả con người đã nói ra được những lời ưu ái dường trời đất dành riêng cho con người. Và tri thức đã đẻ ra kiêu hãnh. Kiêu hãnh đẻ ra con đường dẫn đến tiêu ma. Phải nói, đến lúc con người không còn trò chuyện được với hươu nai trên rừng là lúc con người bắt đầu hục hặc nhau. Ta, một mình nơi sông nước, có lúc cảm thấy choáng ngợp vì các cuộc cãi vả dai dẳng của con người. Cãi vả về những tiếng nói của trời đất. Cãi vã về những tiếng nói của con người. Chẳng phải nói ra rồi thôi, mà còn chép thành kinh thành sách. Dường chẳng còn có chỗ cho sự kính ngưỡng đất trời. Những nguyện cầu xưa cũ đã đọng lại thành thời gian.Thời gian đọng lại thành niềm quên lãng. Ta chẳng buồn vì chẳng còn nhận được sự kính ngưỡng. Mà buồn vì con người không còn chỉ cãi vả nhau bằng lời. Trên các dòng sông ta đi lại đã bắt đầu nghe thấy mùi máu. Máu của các cuộc thể nghiệm về các cuộc cải vả. Lịch sử là biên niên sử về các cuộc thể nghiệm các cuộc cãi vả. Cho đến lúc nước trên các dòng sông pha màu máu, thì ta, kẻ náu mình trên sông nước, chỉ còn biết thở dài. Thì còn biết làm sao khi các cuộc thể nghiệm đã thuộc về cách thức tồn tại của con người. Thì chẳng phải đi tìm con nước đầu nguồn con sông quê của người yêu là cũng thuộc về cách thức tồn tại của con người hay sao?

 

Cô gái đàn nguyệt chợt ngẩng nhìn chúng tôi, mỉm cười, rồi lại tiếp tục đàn hát.   Phải nói là tôi cứ thấy hốt hoảng ở trong lòng. Thưa, có phải những kẻ trần mắt thịt này đã được gặp các vị thần? Tôi thốt lên như một cách chống đỡ nỗi sợ. Còn nàng, chắc là còn cảm thấy kinh dị hơn tôi, cứ bám chặt lấy người tôi. Gọi là thần cũng được, mà gọi là trí tuệ của nhân gian cũng được. Người chèo thuyền đáp lời tôi. Rồi lại cho thuyền cập vào bờ. Tôi hỏi sao không tiếp tục đi tiếp. Ông bảo là ông còn phải đến nhiều nơi trên mặt đất này. Ta cũng chẳng rõ là sau khi uống được con nước đầu nguồn con sông ấy thì các người có tìm thấy tình yêu vĩnh hằng hay không. Nhưng kể từ giờ phút này thì các người phải tự làm chủ con thuyền trên con đường thể nghiệm về tình yêu của mình. Ông nói. Và trao mái chèo cho tôi. Đến lúc ấy thì tôi lại cảm thấy cảm động như đang chia tay một con người. Tôi hỏi người chèo thuyền là ông định đến những nơi nào? Ta phải đi khắp hết mặt đất này để hát, bỡi vì hát là ký cho người đời sau hiểu những gì đã xảy ra trong quá khứ. Ông nói.

Đợi cho đến lúc người chèo thuyền và cô gái đàn nguyệt khuất dạng, tôi mới dám rỉ tai nàng nói ra ý nghĩ có vẻ tư biện của mình, rằng những gì vừa diễn ra đều là hóa thân của thần sông nước. Nàng có vẻ như đang rơi vào trạng thái năng sản của kẻ sáng tạo. Đến khi tôi đã thay cho người chèo thuyền, cho con thuyền lướt về phía thượng nguồn của sông, nàng còn hỏi đấy có phải là chuyện thật hay không?

 

hai mươi lăm.
cũng chuyện cổ tích nữa sao? 

     Chẳng phải lời ca của kỹ nữ đã làm thức dậy những năng lực tiềm ẩn trong chúng tôi sao? Thì tự bé lớn đã biết chèo thuyền bè là gì, mà lúc đó thì tôi đã thành anh chèo thuyền. Không bao lâu nữa chúng ta tới tiên cảnh thôi. Nàng nói có vẻ rất nghiêm túc. Và dành lấy mái chèo, để chèo thuyền thay tôi. Chẳng hiểu sao bấy giờ tôi cứ để cho nàng làm theo ý nàng, chẳng hề ngăn cản. Và quả thật cái cách cầm mái chèo khuấy nước của nàng là còn điệu nghệ hơn tôi. Xưa có người con gái đi tìm tình yêu vĩnh hằng… Tôi nhìn nàng, nói, làm như sắp biến người mình yêu thành nhân vật cổ tích. Nhưng đâu để cho tôi có chỗ nghĩ tiếp, chính nàng đã tự biến mình thành nhân vật cổ tích. Bấy giờ nơi sông nước còn đượm màu kỳ ảo của cuộc hội ngộ kỳ thú, như chỉ còn nghe tiếng mái chèo khua nước, với tiếng ai đó, chứ chẳng phải là tiếng nàng, đang mô tả một thứ cảnh giới nào đó có vẻ như mô phỏng thế giới con người.

 

…Xưa có người con gái đi tìm tình yêu vĩnh hằng. Sấm chớp ở trên trời. Và sự bủa vây của những mưu toan đen tối nơi mặt đất. Hãy chờ em bên dưới vòm trời sao buổi sớm. Cứ sắp xảy ra một ngày mới là nàng lại nói với người mình yêu qua thứ ánh sáng có cả những yếu tố của ngày và đêm. Đem thân gái ra thử thách với chớp bể mưa nguồn thì gian truân đã đành. Đằng này, những mưu toan đen tối nơi mặt đất tựa sự ngu xuẩn lớn nhất trong những ngu xuẩn của con người làm cho nàng như chẳng còn bước nổi. Vào một ngày có ánh nắng chói chang của mặt trời tháng sáu, nàng dừng chân ở khu rừng thông ấy. Những con đường đầy cát. Và gió biển thì đang mang lại hương vị của bao la thoáng đãn. Tựa số phận run ruổi, nàng đã dừng chân chính nơi đang diễn ra sự cố coi như có tầm mức quan trọng của thế kỷ. Các nhà thông thái có vầng trán vừa đủ để tỏ ra mình là thông thái đang rao giảng thứ thuyết lý cao siêu vốn lấy từ kinh điển của thế kỷ trước nhưng đã được sửa sang qua nhiệt tình cháy bỏng của các vị. Nếu không có nó, đám trẻ tuổi các người hỏng bét hết… Cứ sau một hồi giảng thuyết, các vị lại thét vào tai đám cử tọa trẻ tuổi thứ lửa hỏa ngục chết người ấy. Là bị bắt buộc nghe giảng thuyết. Người ta đã tập hợp vào nơi rừng thông có tiếng biển gào cái đám trẻ tuổi đầu óc tăm tối gây bỡi những năm tháng tăm tối trước đó. Nàng là tuổi trẻ, tất nhiên là nàng phải nghe giảng thuyết. Bỡi các vị liệt vào loại đầu óc tăm tối hết thảy đám tuổi trẻ từng sinh ra và lớn lên ở miền đất ấy. Như chẳng thể kiềm giữ được lòng kiêm ái bao la như biển cả, các nhà thông thái của thế kỷ đã lăn xả vô dòng sông cuộc sống để cố vun bồi tri thức cho một lớp trẻ mà theo các vị, nếu không được vun bồi là hỏng bét cả. Các người là rường cột của đất nước, là vốn quí của dân tộc, nghe chưa? Sau những giảng thuyết tuy phức tạp nhưng cao sang, và sau những lần thét lớn để kích thích trí não đám tuổi trẻ, các vị thường dừng lại với những lời lẽ thâm u, vừa nói, vừa rớm nước mắt nhìn đám tuổi trẻ vốn bị quá khứ tăm tối làm cho đầu óc tối tăm. Vào một hôm có tiếng sóng vỗ vào rừng thông, có một vị trong các vị thông thái   chăm chắm nhìn nàng, rồi bất chợt nắm lấy bàn tay mảnh mai của nàng, bảo là ông ta vô cùng yêu quí nàng, bỡi trong những lần giảng thuyết ông đã nhìn ra những năng lực tiềm ấn ở nơi người nàng, nên muốn đích thân truyền cho nàng những tri thức mới. Hãi quá, ngay tối hôm đó nàng đã trốn khỏi rừng thông, vì sợ đầu óc tăm tối của mình không thu nhận nổi thứ tri thức mới của nhà thông thái ấy. Và sau đó là nàng lạc vào miền đất đường đi thì trông thấy trải trước mắt nhưng đi mãi chẳng tới đâu cả. Chính ông cụ có những nếp nhăn nơi vầng trán mà ông gọi là vết sẹo, người thuộc phe toàn cầu hóa, đã chỉ cho nàng chỗ ẩn náu để khỏi bị bom đạn của cuộc chiến đang diễn ra ở miền đất ấy. Mấy thằng cha ấy khi ngồi ở bàn hội nghị thì nói như diễn thơ, nào trái đất là ngôi nhà chung của nhân loại, nào toàn cầu hóa là nhu cầu của văn minh đương đại, nhưng cũng chính mấy chả đã đi tuyên chiến với kẻ khác. Ông cụ nói. Và bảo nàng phải ngồi im ở đó, chờ cho hết cuộc chiến mới được đi. Nàng hỏi bao giờ thì hết cuộc chiến. Ông cụ sờ tay lên trán mình, bảo khi không còn đếm nổi số vết sẹo ở trán của mình thì cũng chưa chắc hết cuộc chiến. Nàng bảo như thế là nàng có thể sẽ chết ở nơi trú ẩn. Ông cụ bảo có chết ở nơi trú ẩn cũng được, chứ sao đâu. Nơi trú ẩn của nàng là một ngôi làng nhỏ nằm heo hút bên một dãy núi lớn. Đồng ruộng thì hoang hóa. Số người đi lại trong làng thì như là ít hơn   số nhà cửa. Hỏi thăm mới biết là người làng đã chết dần mòn trong cuộc chiến nhằm biến ngôi làng ấy thành một đất nước riêng biệt. Trước là cũng có tổ quốc, nhưng là tổ quốc chung, giờ là muốn có tổ quốc riêng. Những người nàng gặp bảo với nàng thế. Té ra là đang diễn ra cuộc chiến nhằm tách ra khỏi một đất nước cũ. Là có một hôm, một người ăn bận sang trọng   xưng là con cháu của một dòng họ trong làng mới từ cuộc hội nghị thế giới trở về, hô hào người làng hãy đứng lên giành lấy quyền tự trị của làng, chúng ta là có thần thánh riêng, có tổ tiên riêng, là có tập tục ăn nói ngủ nghỉ riêng, nên chúng ta phải có tổ quốc riêng, người sang trọng ấy nói, những lời nói như có phép màu, khiến cho người làng nghe theo, súng đạn là người ấy chở tới, mười người cầm súng ra đi, chưa chắc đã còn một người trở về. Nàng đã nghe người ta kể thế. Té ra là đang diễn ra cuộc chiến tranh bộ tộc của thời hiện đại. Anh cứ chờ em ở bên dưới bầu trời sao buổi sớm. Nàng lại nói với người mình yêu qua tiếng đạn bom đang vẳng lại tự một nơi xa xôi nào đó.

 

Trong lúc nàng vừa khua mái chèo trong nước vừa đăm nhìn về phía sông xa như chỉ còn muốn im lặng để lắng nghe những âm vang quá khứ, tôi gõ nhẹ vào mạn thuyền, để tiếp tục câu chuyện nàng bỏ dở…

 

…Anh hãy chờ em . Và nàng đã leo lên tận đỉnh núi ấy để gào to lên thế. Ông cụ thuộc phe toàn cầu hóa cũng leo lên đỉnh núi ấy để tìm nàng. Có nhìn thấy chúng đánh nhau hay không? Ông hỏi. Nàng bảo đúng là cuộc chiến tranh bộ tộc của thời hiện đại, bọn họ vừa bắn nhau bằng súng đạn, vừa cắn nhau bằng răng. Như có còn sót lại sau cuộc chiến thì hãy tiếp tục cuộc hành trình. Ông cụ khuyên nàng. Nàng bảo như có chết ở nơi ẩn náu này, thì sau khi chết nàng cũng vẫn tiếp tục cuộc tìm kiếm của mình. Tình yêu vĩnh hằng cũng giống như hương hoa đồng nội, chỉ chiêm ngắm bằng tri thức, chứ chẳng thể nhìn thấy. Ông cụ nói, rồi từ biệt nàng, ra đi. Nàng có hỏi là ông sẽ đi đâu về đâu. Nhưng ông cụ chỉ mỉm cười, lặng lẽ xuống núi. Lát sau thì nàng trông thấy có đám mây hình thù kỳ dị đang rơi xuống trên đầu mình. Nàng cứ nhắm hai mắt lại thật chặt vì sợ. Nhưng khi lén hé mắt dòm thì thấy mình ở trên một con thuyền đang lênh đênh giữa trời mây.

 

Tôi với nàng là từ trên tiên cảnh tụt xuống trần gian lúc mái chèo của nàng bỗng dính vào một thứ mê hồn trận nào đó đã được ai đó giăng mắc ở trên sông.

 

hai mươi sáu.
những người tiền sử. 

  Tôi có cái lý để gọi bọn họ là người tiền sử. Quang cảnh trời đất lúc bấy giờ là như thế này : Dòng sông đang ở vào đoạn được coi như thuộc miền bán sơn địa, tức nhìn hướng nào cũng thấy núi, mặt trời thì còn khá cao, cũng chỉ vừa xế một chặp, nhưng do núi non vướn vất tầm nhìn, thành ra cứ có cảm giác là trời tối đến nơi, nếu tả thêm cho đủ thì còn có tiếng gió, tiếng lũ chim rừng từ trong núi xa vẳng lại, còn làng xóm thì thấy đấy, cũng chẳng xa dòng sông mấy, nhưng tuyệt nhiên chẳng nhìn thấy một bóng người, chẳng nghe thấy một tiếng gà hay tiếng chó. Giữa quang cảnh đất trời như thế nàng bỗng hô hoán thần sông nước đã cầm chân chúng tôi. Sợ trong cơn bối rối nàng ngã xuống sông, tôi phải dìu nàng. Đừng sợ, em. Tôi vừa nói xong lời này thì một đám người trùng trục từ dưới nước trồi lên, vây quanh thuyền chúng tôi. Quả tình bấy giờ tôi có cảm tưởng là mình đang lạc vào một thế giới xa lạ nào đó. Đám người trai trẻ ấy vừa lội, vừa cùng nâng thuyền lên, và đẩy về phía hạ nguồn. Hai người ở đâu đến? Cho đến lúc một người trong bọn họ lên tiếng hỏi, tôi mới biết chắc là mình đang được cứu giúp. Nhưng sao lại quay về hạ nguồn, mà không vào bờ? Tôi còn đang băn khoăn trong lòng, thì nàng rỉ tai tôi, hỏi, có phải đấy cũng là hóa thân của thần sông nước? Mọi thứ là đang diễn ra ngoài mọi đoán định của mình, nên tôi cũng chẳng biết nói thế nào với nàng. Đám người trai trẻ bỗng cười to lên, rồi đẩy thuyền ngoặc vào bờ. Cười là do thấy cảnh tôi âu yếm nàng trong hoạn nạn? Nhưng là tôi đã đoán lầm. Sau khi cười to lên, bọn họ bắt đầu nói với nhau thứ ngôn ngữ của những người giăng câu, vừa nói, vừa nhìn chúng tôi, vẻ rất khoái chí. Bọn họ nói nhiều lắm. Có chỗ, tôi nghe ra. Có chỗ tôi chẳng hiểu gì cả. Nhưng có thể tắt một lời những gì tôi có thể nhắc lại được: Không bắt được con cá vượt thác, mà lại bắt được hai con người vượt thác. Chưa hiểu thác là gì, và vượt thác là sao, nhưng chỉ nghe bắt được hai con người vượt thác, là chúng tôi đã tính đến con đường chết. Ta lại gặp đám ăn thịt người ! Nàng rỉ tai tôi. Không dám thể hiện nỗi sợ hãi của mình, mà cũng chẳng muốn người yêu của mình rơi vào nỗi sợ hãi, tôi gượng cười, rồi rỉ tai nàng, bảo chớ nghĩ quấy. Thuyền đã cập bờ. Lúc đám người trai trẻ ấy cùng leo lên bờ, tôi có cảm tưởng là đang nhìn thấy hình ảnh những con người tiền sử trong một cuốn cổ sử nào đó. Thứ cơ thể hoàn chỉnh được truyền lại từ các vị thủy tổ homosapiens là được thể hiện một cách rõ ràng và đầy đủ nơi thân thể chắc khỏe của những con người ấy. Chẳng lẽ lại là một   tộc người nguyên thủy còn sót lại ở miền bán sơn địa này? Ý nghĩ có vẻ buồn cười ấy là nảy ra trong đầu tôi lúc tôi dìu nàng lên   bờ. Là tôi tự động dìu nàng lên bờ, chứ chẳng có ai trong đám người ấy bảo chúng tôi lên bờ. Nếu như bị ăn thịt là tôi với nàng sẽ được đưa vào vùng núi non trước mặt, nơi đang vẳng lại tiếng chim buồn bã. Tôi nghĩ. Và chợt cảm thấy rất vui. Nếu chết như thế thì tình yêu của chúng tôi chắc chắn trở nên bất tử. Nhưng lại có mấy người trong bọn họ nhảy xuống sông trở lại. Chẳng lẽ đám ăn thịt người này là hóa thân của lũ thuồng luồng cá sấu ở dưới sông?   Nàng lại rỉ tai tôi với vẻ lo sợ trông thấy rõ. Cái cách nghĩ của nàng làm tôi thêm rối rắm. Nhưng rồi đám thuồng luồng cá sấu hóa thân của nàng không ăn thịt nàng, sau khi lặn xuống nước một hồi, đã mang trả nàng cái mái chèo đã mất. Đến lúc này tôi mới dẹp được những ý nghĩ về cái chết, để mở đầu cho một cuộc chuyện trò có đầu có đuôi. Tôi cứ nói thật với bọn họ rằng chúng tôi đi tìm con nước đầu nguồn của con sông ấy, và đi đến đó thì gặp nạn. Bọn họ lại cười to lên. Tôi hỏi là chúng tôi trông có vẻ buồn cười lắm phải không? Tức cười là chuyện đi tìm con nước đầu nguồn kia. Anh chàng cao lớn nhất đám nói. Hình như cũng chỉ mỗi anh ta, người đã hỏi chúng tôi ở đâu đến, là mới biết cách trò chuyện . Sao đi tìm con nước đầu nguồn thì tức cười ? Tôi hỏi. Anh ta bảo cứ đi miết cho đến đời con đời cháu chưa chắc đã đến nơi ấy. Tôi vẫn chưa hiểu thế là sao, nên lại tiếp tục quần anh ta về chuyện con nước đầu nguồn. Còn nàng, có lẽ cho đến lúc ấy mới ra khỏi chuyến đi tìm tình yêu vĩnh hằng do chính nàng nghĩ ra. Các anh là chưa bao giờ đến đầu nguồn con sông này hay sao? Nàng bắt đầu tham gia vào cuộc chuyện trò. Tôi với nàng quần đám người trai trẻ ấy một hồi thì rõ dần mọi chuyện. Với bọn họ thì thế giới là gòm có cái xóm làng như không người ở nằm tiếp giáp với dãy núi như lúc nào cũng bị đè nén bên dưới những đám mây màu xám, là gòm có con sông nước khi đầy khi vơi, mà tự cổ chí kim, bao nhiêu lớp người sinh ra và lớn lên ở miền đất bán sơn địa ấy đều giữ trong lòng niềm kính ngưỡng cái thác nước trên sông, nơi ranh giới giữa thế giới con người và thế giới của những thế lực siêu hình, từ thác nước trở xuống hạ nguồn là thuộc về con người, từ thác nước trở lên thượng nguồn là không thuộc con người, cho nên, tự cổ chí kim là chưa có người nào dám một lần thử bơi qua cái thác nước ấy, và cũng chưa có ai lại đi nghĩ đến chuyện đi đến đầu nguồn con sông ấy một lần cho biết, bỡi tự cổ chí kim, những con người sinh ra ở miền đất ấy là đều nghĩ sông là bắt đầu từ chỗ bắt đầu của đất, cái thế giới được thu nhỏ lại trong tầm mức nghĩ ngợi của những con người ở đây hóa ra lại là nơi chốn có vẻ bình yên nhất trời đất, bỡi, lúa thóc là chỉ lấy từ đất, cái mảnh đất nhỏ hẹp, cằn cỗi, trải theo chân núi, ngày in dấu chân con người, đêm có thêm dấu chân lũ nai lũ thỏ, thịt thà rau cỏ là chỉ lấy từ trên rừng, thịt là thịt của con chồn con mang, rau cỏ là rau cỏ mọc hoang, con cá con cua là lấy từ con sông có cái thác nước thiêng, cho nên giăng câu là để bắt con cá vượt thác chứ không phải để bắt con cá xuôi thác, bỡi, con cá xuôi thác là đến từ thế giới không phải của con người. Khi hiểu ra thuyền đã mắc lưới trên sông, nàng vui vẻ gọi đám người trai trẻ ấy là các vị thần sông nước của thời hiện đại. Các anh quả là những vị thần của thời nay, bỡi vì thần mà cũng biết cởi trần đi giăng câu. Nàng nói. Các anh chàng người tiền sử (từ lúc ấy tôi gọi bọn họ là các anh chàng người tiền sử) chắc chỉ hiểu câu nói của nàng theo cách nửa nạc nửa mỡ, nên anh chàng cao to nhất đám cũng nói ra một câu có vẻ cũng nửa mỡ nửa nạc. Hay là hai anh chị cũng làm thần thời nay, cỡi trần với bọn này, đi bắt con cá vượt thác cho biết. Bọn họ lại cười ầm lên. Nhưng cái thác nước ấy là ở gần đây không? Tôi hỏi. Thấy bọn họ im, chẳng đáp, thì biết là mình đã chạm vào một thứ kiêng kỵ nào đó của vùng đất ấy, nên phải lảng sang chuyện khác. Này các anh chàng người tiền sử, thuyền thì chúng tôi tặng cho các anh đấy. Tôi quyết định hơi đột ngột, nên nàng cũng tỏ ra   ngạc nhiên. Còn đám người tiền sử ấy thì bắt đầu nhảy múa quanh tôi với nàng. Nói nhảy múa là để củng cố thêm cho cái ý nghĩ tiền sử của tôi đấy thôi, chứ thật ra là bọn họ vừa nhảy cẩng lên vừa la ó, rằng, bọn họ sẽ mang cái thuyền nan ấy về làng để mùa lên làm đồ đựng thóc. Quyết định của bọn họ là cũng hơi đột ngột như quyết định tặng thuyền của tôi, nên lại đến lượt tôi ngạc nhiên. Thuyền là để bơi dưới nước chứ tôi chưa bao giờ nghe nói là để chứa thóc.

Cái xóm làng nằm ven chân núi quả là vùng cư trú thuộc thời đá mới như cách nghĩ của tôi. Về sổ bộ của làng thì những con người ở đấy là thuộc thời hiện đại, nhưng cách chăn nuôi trồng trọt của bọn họ lại thuộc thời nông nghiệp sơ khai. Tức vừa cày bằng bò ở ruộng nước, vừa cày bằng đao trồng bằng lửa ở ruộng rẫy. Còn như nuôi con heo, thì giống heo là vừa lấy ở đồng bằng, vừa lấy từ các cuộc săn bắt đám heo hoang trên rừng. Người ta vây quanh tôi và nàng với những ánh mắt hiếu kỳ, y như có một anh ngoại quốc nào đó đã lọt vào làng. Mọi thứ là cũng tại anh chàng người tiền sử cao lớn nhất đám. Vừa đưa tôi đến làng là anh ta giới thiệu ngay với người làng rằng chúng tôi đã chèo thuyền tự dưới biển lên. Biển là anh ta cũng vừa mới nghe được qua cuộc chuyện trò với chúng tôi ở bờ sông. Các anh chị định đi đâu mà đi bằng thuyền? Dường như là người ta chỉ muốn biết mỗi chuyện đó. Thì tôi với nàng cũng cứ nói thật là mình đi tìm con nước đầu nguồn con sông ấy. Nói ra lời ấy là chúng tôi có ý chờ những gợi ý nào đó của người làng về con đường dẫn đến nơi mình chưa hề biết. Nhưng không. Con nước đầu nguồn con sông ấy là thuộc về cái thế giới nằm bên ngoài thế giới hiểu biết của bọn họ. Những anh chàng người tiền sử khiêng thuyền đã về tới làng. Hai anh chị đã tặng cho làng mình đấy. Bọn họ nói, và đặt chiếc thuyền nan xuống trước mọi người. Lập tức người ta kéo đến chỗ chúng tôi, dường chẳng sót một người làng nào. Người ta đến là để xem hai kỳ quan mới của thế giới: Thuyền chèo lên non. Và hai con người đang trên con đường đến nơi bắt đầu của đất.

 

hai mươi bảy.
biểu tượng. 

     Chữ nghĩa ấy là viết cho ai mà vừa bình dân vừa bác học? Ý nghĩ này nảy ra lúc tôi đứng trước cái biển báo rừng đầu nguồn đầy các hình ảnh và chữ nghĩa. Còn nàng, có lẽ sau một hồi băng qua những gò đống, những bãi hoang, băng qua những sình lầy, trũng thấp, giờ đây chỉ còn muốn nằm dài lên đất mà trút qua hơi thở những mệt nhọc. Nhưng rồi, dường có phép màu nào đó, cái biển báo rừng đầu nguồn đã dựng nàng dậy. Việc làm đầu tiên của nàng là dịch. Đọc xong bảng liệt kê những lợi ích của việc bảo vệ rừng là nàng bắt đầu dịch. Hữu ích thì dịch là có lợi (nguyên văn : bảo vệ rừng đầu nguồn là việc làm hữu ích) Sinh thái thì dịch là chỗ đất trời dành cho các loài vật hít thở ( nguyên văn : bảo vệ rừng đầu nguồn là bảo vệ vùng sinh thái ) Tài nguyên quốc gia thì dịch là của cải của một nước (nguyên văn : làm cháy rừng đầu nguồn là làm thất thoát tài nguyên quốc gia ) Anh có biết ai đã làm ra cái biển báo này không? Nàng chợt dừng chuyện dịch lại, hỏi tôi cái câu hỏi không phải để nghe câu trả lời, mà cốt là để tôi cũng tỏ ra buồn cười như nàng trước một việc làm có vẻ buồn cười của con người thời hiện đại. Nói cái biển báo ấy là một thứ pháp lệnh thì cũng chưa đúng. Mà nói là khuyến cáo thì cũng không phải. Không phải là khuyến cáo, bỡi nội dung biển báo là toát lên thứ không khí ràng buộc. Nhưng nếu là pháp lệnh, thì sao chẳng thấy ghi ra ở đây các hình phạt ? Lúc bấy giờ, ở đầu   con đường vào rừng, đứng trước cái biển báo to lớn xây bằng xi măng, viết vẽ bằng sơn, là chỉ có tôi với nàng. Có nghĩa lúc bấy giờ là chỉ có hai con người ở trên mặt đất này là đang đọc cái biển báo rừng đầu nguồn ấy. Nhưng dù là pháp lệnh hay là khuyến cáo, thì cái biển báo cũng chẳng ăn nhập chi đối với chúng tôi. Tôi và nàng là đi tìm con nước đầu nguồn của con sông chảy qua vùng núi rừng ấy, nhưng chỉ là đi tìm đầu nguồn con nước, chứ chẳng phải đi chặt rừng, đi đốt rừng, nên những lời lẽ nơi biển báo là chẳng dính dáng chi tới chúng tôi. Mà giả dụ như không phải chúng tôi, mà là những người đi làm than củi trộm, hay đi đốn gỗ trộm, đang đứng trước cái biển báo ấy, thì đám chữ nghĩa ấy cũng chỉ dơ tay chào đón những con người nghèo khó phải đi ăn trộm của cải chung của nước. Em phải dịch lại cho nôm na dễ hiểu, nhưng chưa hẳn đã làm thay đổi cái ý đồ có vẻ tiền định của những con người đang thiếu áo cơm, bỡi vì luật lệ thì chỉ có ý nghĩa đối với những kẻ no đủ. Nàng nói, làm như mình là kẻ có thể thay đổi mọi thứ ý nghĩa của cuộc sống. Ngày nay, người ta không cho đốt rừng vì sợ hư hao cái hành tinh chúng ta đang sống, nhưng dù gì thì chúng ta cũng phải mang ơn những kẻ đốt rừng thời ấy. Tôi nói. Anh lại nhớ đến những anh chàng người tiền sử, bắt là chỉ bắt con cá của người, nhưng lại biết cách đốt rừng để làm ra cuộc văn minh cày bằng đao trồng bằng lửa. Nàng tiếp lời tôi. Và chúng tôi cùng lặng đi trong những ý nghĩ cổ xưa. Có lẽ nàng tiếp tục nghĩ đến cách biến những ngôn từ lai tạp nơi biển báo rừng đầu nguồn thành những tiếng nói cổ xưa. Còn tôi thì lại chìm vào những ý nghĩ có vẻ nghịch lý, nếu không nói là điên rồ, rằng, vào cái thời băng giá phủ lên mặt đất, chín phần rưỡi chết, nửa phần sống, cái thời sự sống chỉ là thứ sót lại do trời đất nương tay, con người là hoàn toàn tự do tự tại, chẳng ai cấm ai, chẳng ai bắt ai theo ai, có thể là không đốt phá rừng, có thể là đốt phá hết rừng, có thể là nắm tay nhau nhảy múa, có thể là ăn nhau, vào cái thời như thế, mà lại làm ra đến mấy cuộc văn minh ! Em thì em nghĩ thế nào về chuyện ăn lông ở lỗ? Tôi chợt hỏi nàng trong thứ cảm hứng man rợ. Xin nhắc lại, bấy giờ thì cũng chỉ có tôi với nàng với cái biển báo rừng đầu nguồn. Cảm hứng thì man rợ, nhưng là chúng tôi vẫn giữ được nền văn hiến cổ kính của đất nước mình. Có nghĩa là tôi với nàng hôn nhau trong lúc chỉ có cái biển báo rừng đầu nguồn là nhìn thấy. Là cũng rộng bằng mấy huyện mấy tỉnh gộp lại, chứ chẳng phải là nhỏ. Nàng nhìn những con số mô tả rừng đầu nguồn nơi biển báo, nói. Còn tôi thì cố tìm ra trong cái sơ đồ của đất, một thứ tín hiệu nào đó như là cách thế để đi đến đầu nguồn con sông đó. Trước mặt tôi lúc bấy giờ, nhánh phụ lưu của con sông quê nàng là đương uốn mình vượt qua những núi non, vượt qua những ghềnh thác, chốc chốc lại trườn mình qua một dấu gạch chéo đang đè lên cái ngọn lửa đang rừng rực cháy, thứ hình ảnh được coi như là ngữ pháp của cháy rừng và không được để cháy rừng, tôi cố nối dài ra trong tưởng tượng của mình dòng sông đang chảy qua thứ không gian được thể hiện trên thứ mặt bằng làm bằng sản phẩm của con người, nhưng chẳng thể nối tới được đầu nguồn con nước, bỡi bấy giờ là chồng chất trong tưởng tượng của tôi những khúc, những đoạn, ở hạ nguồn có, ở thượng nguồn có, nước trên sông là đồng nghĩa với thời gian, bấy giờ là tôi nhìn thấy ở trên sông những mầm mống của tồn tại, ở đấy là những mưu toan thay hình đổi dạng của đám rong rêu, là những cuộc trút xác của loài cá, loài tôm, sự trút xác như còn vang động đến những khúc hát của con người thời hiện đại, ở đấy là chỗ bắt đầu của những cuộc di chuyển, không phải di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, mà từ loài này sang loài khác, con nòng nọc chuyển thành cóc ếch nhái, con cá chuyển thành con đại bàng ăn được thịt người, không phải chỉ nước trên sông, mà cả hai bên bờ của con sông cũng đồng nghĩa với thời gian, tôi nhìn thấy đi lại ở đấy là những con người còn giữ được mẫu hình của loài giống và những con người không còn giữ được mẫu hình loài giống, ở đấy là cuộc loạn luân có vẻ kỳ cục nhất, thời gian là đẻ ra con người,   nhưng con người cũng đẻ ra thời gian, đôi bờ của con sông không phải là bên lở bên bồi, mà bên nào cũng bồi bên nào cũng lở, ở đấy là đất cãi vả với đất, cuộc cải vả về sự vĩnh hằng và không vĩnh hằng, hóa ra, trong lúc tôi cố nối dài ra cho tới đầu nguồn con nước thì con sông ấy cứ rẽ đông, rẽ tây, ngoằn ngoèo qua suốt tưởng tượng của tôi, cái dòng sông tưởng   tượng của tôi, hóa ra lại là hóa thân của cuộc sống trần gian, sự hóa thân diễn ra với cả sự nghiêm túc lẫn hài hước. Em thì, giữa nghiêm túc với hài hước, em thích thứ nào hơn? Chẳng rõ bấy giờ nàng đang nghĩ gì, nhưng rồi cũng trả lời được câu hỏi nảy ra một cách ngẫu hứng từ dòng suy nghĩ   hỗn tạp của tôi. Theo nàng, hài hước là nghiêm túc. Và, nghiêm túc là hài hước. Là nàng đã nói ra những điều tôi đang nghĩ. Tình yêu chúng tôi bấy giờ coi như đạt tới đỉnh cao. Có nghĩa, chỉ bước thêm một bước nữa là tới chỗ vĩnh hằng.

 

hai mươi tám.
rừng đêm. 

Có phải rừng đêm là cái nền của yêu đương hay không, mà tôi với nàng lại thích băng qua rừng đêm? Dường như hết thảy đều là đồng điệu. Đám lá chạm nhau ở trên cây cũng trử tình như cái cách tôi và nàng đi bên nhau chốc chốc lại chạm người vào nhau. Màu rừng đêm như cũng chỉ sâu thẳm đủ để chuyên chở những ý nghĩ   nảy ra từ chỗ tận cùng trong suy nghĩ của chúng tôi. Cả cái cách trò chuyện của đám sinh vật chỉ nghe tiếng chứ chưa bao giờ nhìn thấy, là cũng tha thiết, nhiệt thành, và ẩn chứa bao nhiêu là ý nghĩa như cuộc trò chuyện giữa tôi và nàng. Hóa ra tình yêu đã làm cho chúng tôi trở nên thông tuệ trước vẻ đa tạp của tự nhiên. Chúng tôi gọi đám sinh vật có vẻ nhỏ bé nhất trần gian ấy là những ẩn sĩ. Trời đất có thể thay nhau mưa nắng, nhưng cái đám sinh vật ấy dường như chẳng bao giờ thay đổi cái thế giới quan có thể nói gọn lại thế này : có thể nhìn thấy kẻ khác, nhưng chẳng bao giờ để cho kẻ khác nhìn thấy mình. Thì chẳng phải anh với em cũng đang là những ẩn sĩ đó sao? Nàng nói. Tôi bảo hiện thời có một người đang biết rõ tung tích của tôi, là nàng, và có một người biết rõ là nàng đang đi ở trong rừng với người yêu của mình, cho nên chỉ có thể nói chúng tôi mới chỉ có vẻ ẩn sĩ mà thôi. Để đạt được cái vẻ bí ẩn của đám sinh vật nhỏ bé kia, nàng đã đưa ra đề nghị chúng tôi phải đi rời ra để cho không còn trông thấy nhau, để cho không còn biết tung tích của nhau. Hoặc anh đi trước em, hoặc ngược lại, cách trở là một trong những yếu tố để củng cố sự bền vững của tình yêu. Nàng nói. Tôi bảo, lúc khác thì được, nhưng đương trong rừng, nếu đi rời ra, có thể một trong hai chúng tôi sẽ gặp một anh khủng long nào đó còn sót lại tự kỷ creta, bị khủng long thịt là đi vào cõi hư vô, chứ chẳng thể đạt được thứ gọi là bí ẩn. Nàng bảo nếu có một con khủng long còn sống sót như thế, thì trong tiến trình tiến hóa mấy chục triệu năm qua, giờ này có thể là nó, cái con khủng long ấy, đã biến thành thứ tiếng kêu trầm thống của gió. Đã bao giờ anh nghe thấy nỗi trầm thống trong tiếng gió chưa? Nàng dừng lại hỏi. Rồi tiếp tục diễn tả một cách hào hứng những cách thức tiến hóa có thể xảy ra với con khủng long còn sót lại sau kỷ creta. Cũng có thể là nó đã biến thành thứ niềm tai ương ẩn chứa trong các cuộc chiến giữa con người với con người và giữa các loài trên mặt đất, các cuộc chiến giành chỗ ở, giành thức ăn, mà cũng có thể là cái con khủng long còn sống sót đó đã biến thành các ông vua tàn bạo, lịch sử loài người là có quá nhiều ông vua tàn bạo, thì do cái gì sinh ra nếu không phải là do con khủng long còn sót lại? Tôi hỏi sao con khủng long còn sót lại không biến thành những thứ khác, mà biến thành những thứ như thế? Nàng bảo mọi thứ trên đời là do con người nghĩ ra, mới đầu nghĩ mặt trời quay quanh trái đất, sau lại nghĩ trái đất quay quanh mặt trời, nghĩ ra rồi, thì đi tìm chứng cứ, tìm có chứng cứ rồi, thì la toáng lên quá khứ là sai lầm, cứ thế, công cuộc chống sai lầm dường như bất tận. Tôi bảo không thể đem mối liên hệ giữa trái đất với mặt trời ra để biện minh cho mối liên hệ giữa con khủng long với ông vua tàn bạo. Một thứ tòa án dị giáo. Nàng buột kêu lên giữa rừng đêm. Rồi bảo tôi cũng giống với các ông quan tòa xử các nhà khoa học của các tòa án dị giáo ngày ấy, các vị ấy là chẳng nhìn thấy trái đất quay quanh mặt trời, cũng như tôi là chẳng nhìn thấy con khủng long hóa thành ông vua tàn bạo. Chắc là một con sóc, hay một con thỏ thì phải. Chỉ nghe vang lên một tiếng động rất khẽ từ lớp lá khô ở đâu đó. Xin nói rõ là chúng tôi đang đi trên con đường mòn ai đó đã tạo ra trong rừng. Có rất nhiều đường mòn như thế. Nhưng chúng tôi cứ theo cái sơ đồ của đất trên biển báo rừng đầu nguồn mà định ra hướng đi. Dường cuộc tranh luận có vẻ thuần lý   đã khiến cho chúng tôi quên mất là mình đang đi trong rừng đêm. Đến chừng nghe thứ tiếng động vang lên từ lá khô ấy, chúng tôi mới sực nhớ ra là mình đang đối đầu với sự đa tạp của tự nhiên. Tôi bảo đấy chỉ là tiếng chân của một con sóc hay của một con thỏ. Nhưng nàng bảo không phải. 

 

hai mươi chín.
cứ coi như gặp cọp.

Từ những ý nghĩ về khủng long, nàng đã chuyển sang những ý nghĩ về cọp. Tiếng động kiểu ấy nhất định là tiếng chân của chúa sơn lâm. Nàng lại khẳng định. Ta hãy dừng lại để nghe kỹ thử sao? Tôi đề nghị. Và dường như từ một chỗ tăm tối nào đó trong trí nhớ của nàng, những con cọp thời thơ ấu của nàng đã lần lượt hiện ra. Em đang nghĩ gì vậy? Thấy nàng cứ ngồi im lặng, tôi hỏi. Ngày xưa, có một người đi tìm trầm. Bà nội em thường bắt đầu như thế. Nàng nói. Như thế là sao? Tôi hỏi, vì chẳng hiểu chuyện gì sắp xảy ra với nàng. Quả tình là từ thật xa đang vọng lại một thứ tiếng động gì đó, tôi chẳng thể đoán được, nhưng cứ cảm thấy sợ hãi trong lòng. Hãy lắng nghe kỹ coi nào. Nàng nói. Và xích sát vào tôi. Cho đến lúc ấy bà em cứ ôm chặt lấy người em, ở trong rừng là vậy, bà em nói, còn con cọp thì cứ đủng đỉnh bước…Nàng đang tái hiện lại những câu chuyện kể trong bối cảnh mà theo nàng thì thật sự là nguy hiểm chứ chẳng phải như những nguy hiểm ở trong chuyện kể. Nhẹ nhàng như một con nai bước trên lá rừng thì đúng là tiếng chân cọp, anh cứ lắng nghe coi, bà em bảo bước chân cọp cũng nhẹ nhàng như thế. Nàng đột nhiên ngừng lại có lẽ để xem   ý kiến của tôi thế nào, nhưng thấy tôi im, nên lại kể tiếp. Con cọp cứ đủng đỉnh bước, còn người đàn ông đi tìm trầm thì ngồi chong mắt trong đêm tối, bỡi ăn cơm chiều xong, ông có cho thật nhiều củi vào bếp, nhưng cơn mưa rừng bất chợt ập xuống làm ướt hết củi đun, bà em nói ở trong rừng cọp rất sợ ánh lửa, đêm, ông vừa đặt lưng xuống nằm thì nghe   có mùi hôi thối, lại bật dậy, bà em nói hơi thở của cọp thì rất thối, và ở trong rừng, giữa người và cọp, ai nhìn thấy địch thủ trước thì kẻ ấy thắng, nghe mùi hôi thối biết là có cọp, nhưng chẳng nhìn thấy, nên chẳng thể đi tránh, cho đến nửa đêm thì người đàn ông   đi tìm trầm nghe như cái tàng cây trên đầu mình đổ ập xuống. Hóa ra, cho đến lúc ấy, lúc nàng kể đến chỗ cọp vồ người đi tìm trầm, thì tôi đã hóa thành bà nội của nàng. Có nghĩa, nàng đã sà vào lòng tôi, cho tôi ôm lấy nàng. Ở trong rừng cọp nhìn thấy mình mà mình không nhìn thấy cọp thì coi như chết, bà em nói. Nàng nói. Và như đang cố thu người cho thật nhỏ. Nhưng đấy là chuyện ngày xưa, chuyện kể. Tôi nói. Nàng bảo cọp thời bà nội nàng là chẳng khác với cọp thời tôi với nàng. Và cứ co rúm người lại, làm như là chúa sơn lâm đang rình rập đâu đó để chuẩn bị kết thúc cuộc đời tôi với nàng. Hay là cái con khủng long còn sót lại sau kỷ Creta lại hóa thành con cọp trong ý nghĩ của em? Cách đùa của tôi là để cho nàng bớt đi suy nghĩ căng thẳng. Nhưng chẳng ăn thua. Vào lúc ấy, thì có lẽ, nàng chẳng thể rời bỏ cái lý lẽ đi trong rừng là phải gặp cọp. Và đây là đang đi giữa rừng đêm, nên không thể không nghĩ đến chuyện cọp. Hình như là tiếng của một thứ máy móc gì đó. Tôi đoán thế là để giúp nàng rời xa những ý nghĩ về cọp. Nhưng nàng bảo cách nghĩ của tôi là chẳng thực tế chút nào. Máy móc chi lại đem đặt trong rừng vào giờ này? Nàng nói. Quả tình   bấy giờ tôi có cảm tưởng có một thứ âm thanh chi đó, tựa như tiếng động cơ đang bị hãm lại, hay đang bị nhốt lại, cho khỏi vang xa. Và từ lúc phát hiện ra cho đến lúc ấy thì thứ tiếng động ấy chẳng thay đổi, cứ nghe thấy với mức độ thế, có nghĩa, chẳng có gì đe dọa chúng tôi cho lắm, cho nên tôi với nàng mới có thể ngồi để cãi nhau đấy là thứ tiếng động gì. Em thì em cho rằng, nếu không phải tiếng chân, thì đấy là tiếng gầm của cọp. Nàng nói. Tôi hỏi đã bao giờ nàng nghe tiếng gầm của cọp chưa? Em chẳng thể tả lại lời bà nội em, nhưng theo cách tả của bà em hồi ấy thì tiếng gầm của cọp là y như thứ tiếng động mà ta đang nghe thấy. Nàng nói. Tôi hỏi khi tả tiếng gầm của cọp thì bà của nàng đã nghe cọp gầm chưa? Nàng nói là không biết. Nhưng bà em đã nói cọp gầm như thế thì nó là như thế. Nàng nói. Cách lý luận của nàng là cũng giống với cách lý luận của   một đồ đệ đang trung thành với thứ chủ nghĩa anh ta đang đeo đuổi. Trong lúc chúng tôi còn cãi nhau thì thứ tiếng động ấy bỗng có vẻ khác trước, lúc nghe như đang rống lên, lúc như lịm tắt. Hay là tiếng gào của một con suối nào đó? Tôi nói. Một sai lầm rất lớn. Nàng chợt kêu. Đúng là tôi đã sai lầm rất lớn. Đến lúc nghe nàng kêu lên thế, tôi mới chợt hiểu ra là cơn mưa chiều trong câu chuyện kể của bà nàng đã làm hại tôi, cái cơn mưa ấy đã chui vào chỗ nào đó trong liên tưởng của tôi, để cho mưa rừng thì dẫn đến suối rừng, để cho đến lúc nghe thứ tiếng động lúc vang xa lúc im bặt ấy thì thứ liên tưởng tai hại kia đã khiến tôi buột ra lời ấy. Là đang cuối mùa hạ, các con suối vùng núi rừng đầu nguồn đang khô cạn, thì lấy đâu ra tiếng nước gào? Nhưng   sao ta lại không nghĩ đấy là tiếng giông sấm? Tôi cố khỏa lấp sự sai lầm của mình. Thì đang cuối hạ, trời chuyển mưa là chuyện thường. Nhưng nàng bảo là tôi lại sai lầm nữa. Bỡi từ lúc bắt đầu đi vào khu rừng đầu nguồn thì chẳng có dấu hiệu gì là chuyển mưa cả, bảo có giống sấm là tự dưng dựng chuyện. Nàng nói. Cho đến quá nửa đêm chúng tôi vẫn còn ngồi ở con đường rừng ấy để cãi nhau đấy là thứ tiếng động gì. Chứ làm sao còn dám đi tiếp khi nàng đinh ninh có cọp ở phía trước, còn tôi, không nghĩ là có cọp, nhưng càng lúc càng thấy hoang mang trước những lý lẽ của nàng. Về sau, khi nhắc lại chuyến đi ấy, chúng tôi cứ thấy buồn cười. Chỉ sáng hôm sau là rõ mọi chuyện. Nhưng cho đến lúc đó chúng tôi vẫn cứ ngồi cãi nhau chân lý thuộc về ai. Là tiếng gió? Tiếng rền của núi? Hay tiếng gầm của cọp? Trong lúc chưa ngã ngũ đâu là chân lý đâu là sai lầm, thì sự việc bị đẩy lên đến mức chẳng còn như trước. Một thứ ánh sáng có vẻ kỳ bí chợt xuất hiện ở tận đằng phía trước xa. Nói là lập lòe cũng không đúng. Mà nói chập chờn cũng không phải. Cũng giống như tiếng động kia, thứ ánh sáng ấy như cũng đang bị hãm lại, đang bị nhốt lại. Lúc thả ra là lúc nhìn thấy? Còn lúc hãm lại là không nhìn thấy? Bấy giờ, trong suy nghĩ của tôi có dấy lên   ý nghĩ về ánh mắt của một con thú rừng, bỡi trí nhớ của tôi mách bảo rằng mình đã nghe ở đâu đấy, hay đã đọc ở đâu đấy, là có một số loài thú rừng có đôi mắt có thể nhìn thấy mọi vật ở trong   đêm, trong suy nghĩ của tôi lúc bấy giờ là đang dấy lên ý nghĩ về ánh mắt của một con mèo rừng, chứ chẳng phải là ánh mắt của một con cọp, cái ý nghĩ về ánh mắt của một con mèo rừng vừa dấy lên thì cả khối thân thể của nàng đã đổ ập vào tôi. Cọp! Chỉ buột kêu lên một lời vắn tắt như thế, đúng hơn là chỉ   thầm thì như thế, rồi lịm tắt cả nhân gian. Có nghĩa, bấy giờ trong trí nhớ của nàng cũng có thứ kiến thức về ánh mắt của một con thú rừng, nhưng chẳng phải là ánh mắt của một con mèo rừng, như trong kiến thức của tôi, mà là ánh mắt của một con cọp. Nếu không gắng lắm, chắc bấy giờ tôi đã cùng đổ xuống với nàng, bỡi khi nghe nàng kêu lên thế, thì ánh mắt của con mèo rừng trong trí nhớ tôi đã lập tức được thay thế bằng ánh mắt của con cọp, có nghĩa, bấy giờ thì nỗi sợ hãi của chúng tôi đã nhập lại nhau thành một khối vững chắc, cho nên chúng tôi mới có thể ôm chặt nhau mà ngồi chờ chúa sơn lâm như thế. Bỡi leo lên cây thì chúng tôi không thể. Mà đi tránh thì cũng không thể. Biết con cọp đang đi hướng nào mà đi tránh? Suốt đêm hôm ấy coi như mọi cách biểu hiện nỗi sợ hãi đã được chúng tôi thể hiện một cách rõ ràng và đầy đủ.

 

ba mươi.
những người qui hoạch rừng. 

     Tôi còn thuật tiếp chuyến đi ấy, có nghĩa là chúa sơn lâm đã không đến thịt tôi với nàng trong đêm hôm ấy. Nỗi sợ hãi của chúng tôi thực sự chấm dứt vào lúc ánh sáng của ngày đã xuất hiện một cách rõ ràng và đầy đủ. Và những thứ trong đêm chúng tôi cho là thuộc về cọp, là không còn nữa. Và khi rán dõi mắt nhìn về phía trước thì chỉ thấy rừng cây tiếp giáp với rừng cây. Nhưng vào cuối ngày hôm ấy, thiếu chút nữa là chúng tôi đã đổ xuống ngay trên con đường rừng ấy. Dừng lại! Cả tôi lẫn nàng đều đang thả hồn vào cõi bình yên của một buổi chiều trong rừng già thì một tên lâm tặc nhảy xổ ra giữa con đường rừng ấy, bắt chúng tôi dừng lại. Nói là lâm tặc là để cho chuyến đi có vẻ bi tráng, hết gặp cọp, lại gặp lâm tặc, chứ thật ra cho đến cuối chuyến đi   chúng tôi vẫn chưa thể kết luận anh ta và đồng bọn anh ta có phải là lâm tặc hay không. Chỉ là súng gỗ thôi. Nhưng khi anh ta nhảy xổ ra, chỉa súng vào chúng tôi, bảo dơ tay lên, thì tôi quyết định phải chuẩn bị cho sự chết của mình. Quả tình, khi sự chết đột ngột xuất hiện thì làm cho con người ta cũng đột ngột trở nên dũng cảm. Tôi huých vào nàng, và nói đủ để nàng nghe, rằng để cho tình yêu chúng tôi đi vào cõi vĩnh hằng thì không thể để cho kẻ khác chạm vào chỗ trong trắng và cao cả của tình yêu. Nói tóm, là tôi nói vắn tắt đủ để nàng nghe, rằng chết thì chết chứ không thèm dơ tay. Vậy là chưa chết. Cái tay lâm tặc ấy, tay vẫn giữ cây súng ở tư thế chuẩn bị bắn, và bảo chúng tôi đi về phía trước, tức, tiếp tục đi về hướng chúng tôi đang đi. Tôi và nàng đi đằng trước, anh ta lăm lăm tay súng đi đằng sau. Biết anh ta vẫn lăm lăm tay súng, bỡi chúng tôi lợi dụng lúc có nhành cây sà trên đầu hay sợi dây vướn dưới chân, thì lập tức vờ ngã xuống, và quay người lại, cốt là để nhìn thử cái con người đang nắm   vận mạng của mình. Phải nói là ánh sáng cuối ngày mỗi lúc mỗi giảm đi, rừng cây như cứ ngã dần sang màu u ám nặng nề, thành ra cái khung cảnh trước giờ hành quyết có vẻ ảm đạm, thê lương. Tất nhiên là cả tôi lẫn nàng, trong hoàn cảnh ấy, chẳng dám mở miệng nói lời chi. Xin xỏ ư? Mà chúng tôi có tội tình chi, phải xin xỏ? Và kẻ ấy là ai, có quyền chi đối với chúng tôi, mà phải xin xỏ? Chỉ còn chờ anh ta nói ra một lời chi đó, thì chúng tôi mới biết số phận sống chết của mình. Nhưng không. Là mẹ đẻ của anh chàng lâm tặc ấy đã có chửa sự im lặng trước khi có chửa anh ta. Quân khát máu! Trong lúc nghĩ ngợi về thái độ lạnh lùng của tên đao phủ đang đi phía sau   mình, tôi có buột kêu lên trong suy nghĩ như thế. Hai người cho   xem giấy tờ! Lúc tay lâm tặc thứ hai ra cản đường, để xem giấy tờ của chúng tôi, thì trời đã tối hẳn. Rừng đêm như đang làm tăng thêm sự bí ẩn của cuộc đời. Có vẻ là dân thường thôi. Tay lâm tặc thứ nhất nói xong câu ấy thì rời bỏ tư thế của một tên đao phủ. Có nghĩa, anh ta đã ném súng xuống vệ đường, và đi vào khu rừng già trước mặt. Những sự kiện ấy là có vẻ chẳng ăn nhập gì với nhau, và xảy ra quá nhanh, khiến chúng tôi rất rối rắm. Các người đi làm gì trong rừng? Sau khi dùng đèn pin rọi xem giấy tờ của tôi và nàng, tay lâm tặc thứ hai hỏi với giọng ôn tồn. Cây súng vẫn còn nằm dưới đất. Và ở khu rừng già phía trước bỗng rộ lên nhiều tiếng cười nói. Cái khung cảnh có vẻ hòa bình ấy khiến tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện thoát chết. Đi tìm con nước đầu nguồn con sông quê   của người mình yêu. Tôi lại nói ra điều mình vẫn nói trong các chuyến đi tìm chân lý. Khi yêu nhau người ta còn dắt nhau lên trời nữa là lên rừng. Nhờ câu nói có vẻ cởi mở của tay lâm tặc mà chúng tôi đã gầy được một cuộc đối thoại vừa cổ điển, vừa hiện đại, vừa giải mã được những bí ẩn của đêm hôm trước, cuộc đối thoại có tính cách dân chủ xảy ra khá lâu giữa chúng tôi và cái thực thể trong thuật chuyện tôi cứ tạm gọi là đám lâm tặc. Nhưng vì sao lại ngăn cản sự đi lại của chúng tôi là những kẻ lương thiện? Chính là nàng, chứ không phải tôi, đã sơ ý tạo ra gay cấn ngay khi mở đầu cuộc đối thoại. Các vị nói thế tức coi chúng tôi là không lương thiện? Tay lâm tặc dùng đại từ “các vị” để gọi tôi với nàng. Tôi phải lập tức nhảy vào cứu nguy. Chữ lương thiện nói ra đây là có ý bảo chúng tôi vốn là những người làm ăn bình thường, xin quí vị chớ hiểu lầm. Tôi cũng dùng đại từ “quí vị” để gọi bọn họ. Dường lúc bấy giờ thì tất cả bọn họ từ đám rừng già phía trước đã kéo đến chỗ chúng tôi. Từ trong đám người đang tụ tập ấy vụt lóe lên thứ ánh sáng chúng tôi đã nhìn thấy trong đêm hôm trước. Và lập tức tôi đã hiểu ra đấy là ánh sáng của một thứ đèn rọi chuyên dùng vào một công việc nào đấy, ánh sáng phát ra đã bị hạn chế đến mức tối đa. Chúng tôi là đang tạo ra một thế giới không có tiếng súng. Một tay lâm tặc khá cao to từ trong đồng bọn bước ra, nói, và cúi xuống vệ đường, nhặt cây súng tự nãy giờ vẫn nằm im ở đó. Nàng có vẻ lo lắng áp sát vào tôi, khi tay lâm tặc quay mũi súng về phía chúng tôi. Trong lúc tôi và nàng đang hồi họp chờ một thế giới không có tiếng súng là sao, thì tay lâm tặc ấy đột nhiên chỉa súng lên trời, và bắt đầu nói mà như diễn thuyết về một nền hòa bình nào đó của nhân loại. Các vị nên hiểu đây là biểu tượng của không chiến tranh (anh ta cũng dùng đại từ “các vị” để gọi tôi và nàng ), chúng tôi có súng chẳng phải để bắn giết những người cản trở công việc của chúng tôi, cũng chẳng phải có súng để săn nai săn thỏ làm thức ăn, cũng chẳng phải có súng như kiểu những kẻ cướp có súng, các vị nên hiểu đây chẳng phải là vũ khí theo nghĩa thông thường, chúng tôi gọi là súng là để cho đồng đội chúng tôi biểu dương được tình đồng đội. Mới đầu tôi cứ tưởng đấy là kẻ cầm đầu, là người chỉ huy. Nhưng không phải. Tất cả bọn họ là ngang nhau. Bỡi một tên lâm tặc khác bước ra, giật lấy cây súng trên tay của tay đang diễn thuyết, đem trao cho tôi và nàng. Phải nói là chúng tôi phải cố lắm mới không bật cười to khi phát hiện ra đấy là súng gỗ. Quí vị quả là những người đang tạo ra một nền hòa bình theo đúng nghĩa của nó. Tôi nói trong niềm cảm hứng có tính cách giới hạn, tức thứ cảm hứng chỉ đóng khung trong việc bọn họ dùng súng gỗ, thứ cảm hứng chỉ đột phát xảy ra khi nghe họ tuyên bố về một nền hòa bình như thế, và hoàn toàn chưa biết gì về bọn họ. Nhưng trong khi tạo ra một thế giới không có tiếng súng thì vì sao lại ngăn cản việc đi lại của người khác? Nàng đã liều mạng trở lại câu hỏi ban đầu. Phải biết vì sao bọn họ lại ngăn chận chúng tôi chứ? Nhưng theo cách giải thích của một tay lâm tặc khác thì đấy chẳng phải là ngăn chận. Anh ta bảo cho đến lúc ấy thì chúng tôi vẫn đang trên con đường đi tới, có nghĩa vẫn tiếp tục đi theo hướng chúng tôi đang đi, chưa ai bắt chúng tôi phải quay lại cả. Cho đến lúc ấy thì chúng tôi biết bọn họ là một tập họp trên núi, một tập họp có tính đồng đội khá cao đang làm việc chi chẳng rõ, chỉ biết là bọn họ đang dùng một thứ đèn rọi mà đêm hôm trước chúng tôi cứ lầm tưởng là ánh mắt cọp. Loài người sẽ biết ơn quí vị, vì cho đến lúc này thì quí vị đã tạo ra được một nền hòa bình cho rừng cây ở trên núi. Tôi khoanh vùng nền hòa bình của bọn họ lại, và nói thế cốt để khai thác bọn họ là ai. Không ngờ câu ấy đã lập tức tạo ra cao trào của cuộc đối thoại. Các vị đã hiểu sai rồi, không phải hòa bình cho rừng cây, mà là cho con người. Một người trong bọn họ nói lớn. Tôi phải nói lời xin lỗi, và xin bọn họ giải thích thêm về nền hòa bình ấy. Coi bộ còn dằng dai lắm, hãy ngồi hết xuống đi. Bọn họ nhao lên. Phải nói bấy giờ tôi có cảm tưởng là mình đang tham dự một đại hội gì đó ở trên rừng, lúc đầu là đại hội về hòa bình cho con người, nhưng về sau thì chẳng phải. Có lẽ tay lâm tặc cao to là người có trình độ nhất trong bọn họ. Trong lúc anh ta nói thì những người khác chỉ xen vào hỏi chúng tôi đã rõ chưa. Một nền hòa bình cho con người không phải chỉ là không có tiếng súng, mà còn làm sao cho con người có cơm ăn áo mặc, ngay tự lúc có tổ chức nhà nước thì người ta đã nói đến những thứ đó, người đứng đầu nhà nước nào cũng nói đến những thứ đó, nhưng suốt mấy trăm nghìn năm lịch sử của loài người thì súng vẫn cứ nổ, và con người thì vẫn cứ thiếu đói. Các vị đã rõ chưa? Có ai đó xen vào hỏi chúng tôi. Và tay lâm tặc cao to, người diễn thuyết của đại hội, bắt đầu chuyển qua khúc gập ghình vó ngựa thác đổ đầu non, mà mãi về sau, mỗi lần nhắc lại, chúng tôi cứ thấy rờn rợn niềm sảng khoái man dã. Lũ chúng tôi, người tứ xứ, có xích lại gần nhau là do thiếu đói, hạt cơm lấy từ luống cày là chưa bao giờ no, phải tự cứu lấy mình, khi những cái bụng đói gặp nhau thì bỗng hiểu ra nghĩa lý cao sâu của câu “ tiền rừng bạc biển”, biển thì chẳng dám, bỡi lũ chúng tôi toàn bọn thuồng luồng ở cạn, ngoài chuyện đôi bò miếng ruộng hẩm hiu, lũ chúng tôi đứa thợ cưa, đứa thợ mộc, đứa đốn củi đốt than, cho nên chỉ còn con đường lên rừng, mới đầu là theo người ta lên rừng đãi vàng, lang thang góc núi đầu khe, lũ chúng tôi gặp nhau lúc đói khát, uống ngụm nước suối, thề sống chết có nhau, mới đầu chỉ là cây rìu cái rựa, chỉ khiêng vác bằng đôi chân đôi vai, nhưng theo đà văn minh nhân loại, lũ chúng tôi đã thay những rìu rựa chân vai bằng máy cưa máy kéo, mới đầu chỉ là những súc gỗ lén xuôi sông suối, nhưng theo đà văn minh nhân loại, chúng tôi đã gặp được các bậc hào kiệt bán buôn có tầm vóc quốc gia, quốc tế, hàng hóa đã có bò vàng bò xanh lên tận chốn non cao mà mang về, luật lệ chuyên chở là nằm trong những cái túi đầy ắp ngân lượng luôn đeo trên lưng các bậc đàn anh hào hoa phong các, đứa đốn củi đốt than lầm lũi khi có đồng tiền rủng rỉnh trong túi thì bỗng hóa ra đứa có gương mặt sáng sủa văn minh. Là tiếng gầm của cọp… Nàng buột kêu lên. Các vị lại lầm rồi, đấy là tiếng nói của những kẻ đi tìm cơm áo, là tiếng nói chân chính nhất trong những tiếng nói chân chính của con người. Bọn họ đã đứng lên để nói. Dường hết thảy đã nhao lên, nói. Phải nói đấy là giây phút hiểm nguy trong chuyến đi ấy của chúng tôi. Có nghĩa, nếu tôi không kịp thời giải thích thì có thể bọn họ đã thịt tôi với nàng. Thì chẳng phải cứ hiểu một cách thông thường, thì nàng đã gọi bọn họ là cọp hay sao? Hóa ra trong giờ phút thập tử nhất sinh tôi lại trở thành tay tả cảnh tả tình rất giỏi. Nói gọn, là tôi đã tả lại nỗi sợ hãi của chúng tôi trong đêm hôm trước, nỗi sợ hãi chưa từng xảy ra trong cuộc đời tôi và nàng, khi cho rằng ánh đèn rọi là ánh mắt cọp, và tiếng máy cưa là tiếng gầm của cọp. Lẽ ra là bọn họ cười ầm lên. Nhưng không. Dường như có một nỗi xúc động lớn lao nào đó đang xảy ra trong những con người không phải là dễ hiểu ấy. Nhưng dẫu nói cách nào thì các anh cũng đã vi phạm luật lệ nhà nước ? Tôi chuyển cách gọi “quí vị” sang “các anh” cho cuộc đối thoại có vẻ thân mật hơn. Vi phạm luật lệ nhà nước ở chỗ nào? Tay lâm tặc cao to hỏi. Tôi bảo chặt cây rừng đầu nguồn là vi phạm luật bảo vệ rừng, chặt cây rừng mà không xin phép, không theo kế hoạch khai thác của nhà nước là vi phạm luật khai thác rừng. Đến lúc ấy bọn họ mới cười ầm lên.Và thay nhau nói. Có nhà nước nào lại cho phép đám khố rách áo ôm lũ chúng tôi đi khai thác rừng? Còn như đốn cây to để cho cây nhỏ có chỗ thở mà lớn là theo đúng luật sống của cây rừng, là bảo vệ rừng. Và thứ gọi là kế hoạch khai thác của nhà nước thì chẳng qua cũng là do một bọn người ăn cơm uống nước như lũ chúng tôi nghĩ ra mà thôi. Dường như sự có mặt của chúng tôi lúc ấy là để cho những con người đang sống với núi cao rừng sâu có dịp trút ra những suy nghĩ vẫn dấu kỹ trong lòng. Còn tôi với nàng, đến lúc ấy, chỉ còn muốn tiếp tục cuộc tìm kiếm của mình, nên chẳng còn muốn tranh luận điều gì nữa. Cuối cùng, tôi chỉ hỏi vui có phải là do trộm gỗ của nhà nước nên phải làm việc vào ban đêm hay không? Mọi thứ trên mặt đất này đều sinh ra từ ánh mặt trời, nên lũ chúng tôi có trộm gỗ là trộm ánh mặt trời. Tay lâm tặc cao to nói. Về sau, nàng cứ nhắc đi nhắc lại với tôi rằng phải ghi lời ấy vào kho tàng kiến thức nhân loại, và bên dưới phải ghi rõ đấy là lời của những kẻ trộm gỗ. Các vị phải quay lại thôi, vì chẳng thể ngang qua khu rừng lũ chúng tôi đang qui hoạch. Cuối cùng thì tay lâm tặc cao to tuyên bố với chúng tôi thế. Mãi về sau, khi nhắc lại chuyến đi ấy, chúng tôi cứ thấy buồn cười. Chẳng phải buồn cười vì đám trộm gỗ lại nhân danh là những người qui hoạch rừng. Mà buồn cười là đi tìm chân lý chi lại sợ đến gần vãi các thứ ra trong quần khi gặp đám trộm gỗ nhà nước.

 

ba mươi mốt.
triết học của loài người.

Cho tới khi vị thần làng xuất hiện, chúng tôi mới biết đó là đình làng. Còn lúc bấy giờ, sau một ngày đường mệt lã, trời thì tối như mực, chẳng biết phía trước có xóm làng không, gặp được một ngôi nhà cửa ngõ trống tuênh như thế thì cứ vào nghỉ cái đã, bất kể là của ai. Vừa ịch xuống hè là nàng đã ngủ. Còn tôi thì quyết định trước khi ngủ phải xem xét sơ qua đây là nơi nào. Vừa bước vào bên trong thì một tiếng động rất nhỏ vang lên, có vẻ như một con mèo vừa phóng qua đâu đấy, làm tôi hơi hoảng. Sợ nàng lỡ giấc, tôi chẳng dám bật diêm, mà cứ mò mẫm bước đi trong bóng tối như thế. Nhà chẳng có thứ chi, ngoài những chiếc ghế gỗ nằm rải rác trong phòng, chốc chốc tôi đụng phải, và một cái bàn lớn kê sát vách cuối, mà lúc sờ thử lên bàn tôi nhận ra lư hương với đèn, nhang, nên mới biết đấy là bàn thờ. Nhà đang vắng chủ. Mới đầu, tôi cũng chỉ nghĩ được chừng ấy. Nhưng lúc nằm xuống cạnh nàng thì   có bao nhiêu là giả dụ nảy ra. Giả dụ đã có một sự cố gì ghê gớm lắm xảy ra nơi đây khiến người ta phải bỏ nhà ra đi. Nghĩ đến đó thì dừng lại, không dám nghĩ tiếp. Tôi trở người, úp mặt xuống hè, để ngủ, nhưng chẳng ngủ được. Nó là sự cố gì? Lại giả dụ nữa. Giả dụ có một vụ giết người đã xảy ra trong nhà. Giả dụ có ai đó đã treo cổ chết ở trong nhà. Giả dụ có một trận dịch nào đó giết chết tất cả những người trong nhà. Để trở thành ngôi nhà vắng chủ, ngôi nhà hoang, thì những giả dụ như vậy cứ tự động nảy ra trong đầu óc tôi. Để chấm dứt kiểu tự động chết người ấy, buộc tôi phải đánh thức nàng dậy để trò chuyện. Tự dưng anh cứ thấy cô đơn. Tôi phải nói dối, chứ chẳng lẽ   lại thừa nhận là mình đang sợ. Em cũng đang thấy cô đơn. Nàng nói. Và bật ngồi dậy. Chẳng rõ là nàng nói đùa hay nói thật, tôi cũng bật ngồi dậy, và bảo một người đang ngủ và một người đang thức lại cùng cảm thấy cô đơn là có vấn đề. Vấn đề gì? Nàng hỏi. Tôi nói vấn đề gì thì tôi không biết, nhưng nhất định là đang có vấn đề. Bỡi mục đích của tình yêu là tiến đến chỗ đồng nhất, tiến đến cái một. Nàng nói. Hóa ra là từ chỗ nói đùa, chúng tôi đã đưa đẩy sự việc đến chỗ nghiêm trang. Em cứ tiếp tục đi. Tôi bảo. Và nàng tiếp tục nói. Ngày xưa có người con gái đi tìm tình yêu vĩnh hằng, vào một đêm nàng lạc vào một nơi xa lạ, đang cố tìm hiểu đấy là đâu thì có tiếng ai vọng lại từ thinh không, rằng kẻ nhiều tham vọng thì đau khổ nhất trần gian, nàng bảo mình chỉ có mỗi ước muốn có được một tình yêu vĩnh hằng chứ chẳng có tham vọng nào hết, chỉ muốn làm một hạt bụi cũng là tham vọng, lại có tiếng của thinh không, nàng hỏi làm sao có được một tình yêu vĩnh hằng mà không phải là tham vọng, cứ thế, cuộc trò chuyện với thinh không diễn ra giữa ánh sáng của những vì sao. Là em vừa mới nghĩ ra? Tôi hỏi. Nàng bảo không phải là nghĩ ra, mà trong cơn mơ bất chợt vừa rồi nàng thấy mình trò chuyện với thinh không, đang trò chuyện thì tôi đã đánh thức nàng. Tôi bảo nếu là tôi nằm mơ thì tôi sẽ thấy thế này. Ngày xưa có một người con gái đủng đỉnh bước giữa cuộc đời, xin chào hạt bụi, vào một hôm nàng đang đủng đỉnh bước thì   nghe có tiếng ai nói từ thinh không, xin chào thinh không, nàng liền đáp, và lập tức từ thinh không bước ra một hạt bụi…Hóa ra hạt bụi là thinh không? Nàng hỏi. Tôi phải lục lại trong trí nhớ những gì mình đã đọc được, từ khoa học cho đến tôn giáo, lịch sử, thơ ca… chỗ nào có nói đến thinh không và hạt bụi là tôi trích dẫn cho nàng nghe. Tôi vừa ngồi nhìn đám sao trời vừa trích dẫn những gì mình còn nhớ, còn nàng thì nằm dài ở vĩa hè mà nghe. Cho đến lúc đọc được một bài kệ của một vị thiền sư tôi chẳng còn nhớ tên, bài kệ nói về hạt bụi và thinh không, có lẽ là không đúng lắm, “có thì có cả trăng sao, không thì đến cả đất trời cũng không”, lúc đọc đến chỗ đó thì nàng đã bắt đầu bước vào cõi thinh không, bỡi tôi đã bắt đầu nghe thấy tiếng thở đều đặn của nàng. Tôi định nằm xuống ngủ thì có tiếng nhạc ngựa vang lên đâu đó. Là thần làng đấy! Nàng ngồi bật dậy, bảo. Tôi hỏi làm sao mà biết. Nàng bảo là nàng đã dấu tôi, chính là thần làng đã trò chuyện cùng nàng trong giấc mơ vừa rồi. Ta sẽ nói cho các người biết làm cách nào ta đã trở thành thần làng. Vị khách giữa khuya của chúng tôi bước xuống ngựa, nói. Trong cảnh tĩnh lặng của đêm, dường   như tôi nghe được cả tiếng vẫy tai của ngựa. Đi giữa thinh không thì vạn dặm cũng chỉ là vài dặm, cho nên cả thần cả ngựa đều thung dung. Trong khi tôi nghĩ thế thì thần làng phảy tay, bảo ngựa đi chơi đâu đó, khi nghe gọi mới quày lại. Làm thế nào để có được tình yêu vĩnh hằng mà không phải là tham vọng? Nàng lại nhắc lại câu hỏi nàng đã kể với tôi. Hóa ra vị thần làng ấy còn giản dị hơn cả những giản dị của trần thế. Thần ngồi xen vào giữa tôi với nàng. Và cuộc chuyện trò giữa chúng tôi cũng giống như cuộc chuyện trò giữa những người cùng làng xóm. Hai người đương yêu nhau thế thì còn đi tìm chi tình yêu vĩnh hằng? Thần vỗ vai tôi, hỏi. Tôi nói con người là giống vật hữu hạn, cho nên luôn mơ về cõi vĩnh hằng. Cũng được thôi, nhưng ta nói cho các người biết, mãi mãi là chẳng nhìn thấy điều các ngừơi mơ ước. Thần làng nói. Nàng bảo là mình chưa hiểu. Ta là thần, là bất tử, nhưng các người có nhìn thấy ở ta thứ gọi là bất tử hay không? Thần lại vỗ vai nàng, nói. Nhưng làm cách sao để có được một tình yêu vĩnh hằng mà không phải là tham vọng? Tôi lại nhắc lại câu hỏi của nàng . Có lẽ lời giải đáp là câu chuyện kể về cuộc đời ba chìm bảy nổi của thần.

…Bấy giờ thì triết học của loài người các người là chứa đầy hình ảnh của các vị thần. Có thể nói, mở miệng ra nói là con người nhắc đến các thần. Bấy giờ thì ta chỉ là một vị thần nhỏ nhoi trong cõi vĩnh hằng, thần ngõ. Nếu không nói là hẩm hiu, ta, kẻ canh giữ cảnh vào ra chỗ ở của con người, lắm lúc là chẳng còn trong trí nhớ của con người. Trong các cuộc tế lễ, loài người các người đã xếp ta vào danh mục những vị thần thứ yếu, cái danh mục mới nghe qua tưởng là dành cho con người : các bác. Giữa buổi trần thế đam mê và sùng bái các thần thì cuộc tranh giành quyền lực giữa các thần diễn ra vô cùng gay gắt. Thần là bất tử, nên không thể bước qua xác chết của nhau, như trần thế, mà là bước qua sự thông thái của nhau. Bấy giờ thì vị thần làng của làng này, tiền nhiệm của ta, là kẻ có chữ nghĩa. Lặn lội tới tận nơi lưu giữ hồ sơ của các thần, tay tiền nhiệm của ta đã tự tay sửa lại chức tước thần làng của mình thành ra thần của các thần làng. Cõi vĩnh hằng bỗng xuất hiện một nguồn thông thái mới, có vẻ như muốn bao trùm lên sự thông thái của hết thảy các thần. Và cái tai họa ấy đã xảy ra. Vào một hôm, các thần còn đang bàn tán về nguồn thông thái mới, thì những ngọn khói đen ngòm từ ngôi làng này cuồn cuộn chảy vào cõi vĩnh hằng. Khi biết được ám khí là sinh ra từ việc làm ám muội, các thần đã quyết định ném tay tiền nhiệm của ta vào chốn lãng quên. Làng không có thần làng. Và triết học của loài người các người lại chuyển qua thời kỳ làm rách nát cõi vĩnh hằng. Chỉ có con người biết nghĩ ngợi, và chẳng có thần thánh nào hết. Nhiều nơi trên mặt đất người ta bắt đầu triệt phá những đình miếu thờ thần, triệt phá những hệ thống tư duy có liên quan đến các vị thần. Đả đảo các vị thần. Ở làng này, người ta cũng la toáng lên thế. Nhưng rồi bọn họ sẽ thay đổi cả thôi. Các vị thần rỉ tai nhau. Rồi rỉ tai ta, rằng làng thì phải có thần làng, rằng ta vốn thông thuộc đường ra lối vào làng này, nên thần ngõ có kiêm luôn thần làng cũng chẳng mấy vất vả. Thế là trong buổi con người chẳng còn tình nghĩa với các vị thần thì ta lại nghiễm nhiên trở thành vị thần cai quản của làng. Và dường như loài người các người là luôn nuối tiếc vĩnh hằng. Vào một hôm, ở trong làng, có kẻ mừng sinh con đầu lòng, vốc nắm muối vãi ra đầu ngõ, gọi tên ta bằng thứ đại từ quen thuộc : các bác. Cũng cảm động như thuở ta còn là thần ngõ mỗi khi con người gọi đến ta. Quả như các vị thần đã rỉ tai nhau, loài người các người lại chuyển sang một thứ triết học mới. Ai thích nói có thần thánh, thì cứ nói có. Ai thích nói không có thần thánh, thì cứ nói không có. Ở làng này, người ta rủ nhau đi mua gỗ mua gạch đá về xây lại cái đình làng đã phá năm xưa. Ta là thần làng, nói ta không mừng thì không phải. Nhưng ta đã là thần, nói ta mừng có đình làng mới, là cũng không phải. Hoan hô các vị thần! Lúc làm xong đình làng mới, người làng đã ôm nhau nhảy nhót, và hô to lên thế. Triết học của loài người các người quả là thay đổi xoành xoạch. Và ta cũng chẳng biết   tại sao ta chẳng có mưu đồ nào hết, chẳng có tham vọng nào hết, nhưng cuối cùng thì loài người các người cũng dành cho ta thứ biểu tượng của vĩnh hằng. 

 

ba mươi hai.
người hát rong.

     Sáng ra mới biết ngôi đình làng chúng tôi nghỉ qua đêm là nằm ngay đầu con đường vào làng. Từ trong xóm nhà vang lên tiếng quát tháo của người lớn, tiếng khóc của trẻ thơ, tiếng chó sủa, heo kêu… Vậy mà khi đêm thì dường như mọi thứ đều biến khỏi mặt đất. Còn điều bất ngờ này nữa. Đình làng, nhưng chẳng có vẻ gì là đình làng. Không hoành phi, liễn đối. Không cột khắc, kèo chạm. Nơi bàn thờ thần chỉ chơ vơ mỗi chiếc lư đồng, còn đèn nhang thì vung vãi khắp mặt bàn, như chuyện nhan khói là chẳng hề có ở đây. Dường như ngôi nhà là làm ra cho con người, chứ chẳng phải cho thần? Nàng nói với giọng hoài nghi, trong lúc tôi chỉ im lặng nghĩ ngợi. Chẳng giống những đình làng chúng tôi đã biết. Nhưng chẳng thể nói đây chẳng phải đình làng. Bỡi theo lời kể của thần làng, lúc triết học của loài người chuyển sang một khúc quanh mới, thì người làng này đã dựng lại ngôi đình này. Rồi ta sẽ kể cho các người nghe! Chẳng phải là thần làng quay lại với chúng tôi đâu. Một ông lão, có vẻ là khách đi đường, đã tạt vào đình làng, vừa ngâm nga, vừa nói với chúng tôi thế. Chắc ông cũng từ nơi xa mới đến? Nàng hỏi như để làm quen. Ta đi từ những cuốn sách cổ xưa, những con chữ, phong trần, cổ lục…Ông lão lại ngâm nga. Là kẻ hát rong của thời hiện đại ư? Nàng rỉ tai tôi. Giọng hát của ông lão như có sức khiến cho người nghe lập tức bị khuất phục. Sau này, nàng đã nói lại với tôi, rằng lúc bấy giờ, cũng như tôi, nàng lập tức nghĩ rằng, cũng giống với những người hát rong thời tiền homer, bọn họ, những người hát rong thuở ấy là hát về sự tồn tại của các vị thần đã được chép vào thần phả, còn ông lão là hát về cái thế kỷ chúng tôi đang sống, cũng như tôi, lúc bấy giờ nàng cũng cho rằng ông lão chẳng phải kẻ bình thường. Có thể nói thế này, được không, thưa tiên sinh, những cuốn sách cổ xưa, những năm tháng, và nỗi buồn của những đêm trăng khuyết? Lúc bấy giờ nàng nói như để bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình mà cũng như để cho ông lão hiểu rằng chúng tôi đã hiểu ra ông đang muốn nói với đương đại một điều gì đấy. Quả bấy giờ chúng tôi đoán không lầm. Giữa cái thế kỷ thông tin đa phương tiện, một người ở phía bên này nói để một người ở phía bên kia mặt đất nghe, thì lại có một ông lão, đôi chân có vẻ không còn vững lắm, nhưng giọng nói thì như được sự mặc khải của trời đất, đi bằng đôi chân không còn vững lắm, để đến cái ngôi làng đêm đến thì như biến khỏi mặt đất ấy, để nói về những điều gì đó, có vẻ như là nỗi buồn của thề kỷ.

 

…Ta đi từ những cuốn sách cổ xưa, năm tháng như một đứa bé chạy vòng quanh ngọn núi lớn, những địa chỉ, những tọa độ, là được khắc ghi thành những dấu tích, nhặt một viên sỏi khẽ lên vách đá, lần lữa thấy rong rêu, hóa ra năm tháng với rong rêu là sinh ra từ dấu tích, ta cũng chẳng rõ là ngẫu nhiên hay tất nhiên khi núi nằm chỗ cao hơn biển, và con sông nào thì cũng đổ ra biển, là ngẫu nhiên hay tất nhiên, là một ngày trước đấy, hay một thế kỷ, một thiên niên kỷ trước đấy, con nai con lạc mẹ cũng ngã xuống nơi con suối ấy, ngẫu nhiên với tất nhiên hóa ra là sinh ra từ dấu tích, có sắp bày và chẳng có sắp bày, ta cũng chẳng biết có phải là ta cũng ra đi từ dấu tích, vào những hôm mãi mê ngắm những thành quách nguy nga tráng lệ, ta chợt hiểu ra sự huy hoàng, phần vô tích vô hình của dấu tích, là được làm   bằng những lời lẽ cao sang tuyển lựa từ mớ ngôn ngữ hỗn độn của con người, còn độ dài bền chắc của gạch đá trường thành là được tính bằng máu xương, vào những lúc mãi mê như thế ta đã hiểu ra niềm tự hào của nghìn năm sau là được làm bằng những tham muốn, những trầm uất, những kinh hãi của nghìn năm trước, ta cứ ngắm mãi những vật thể cao sang, dù là trên giấy, trên đất, hay trên đá, thân thể cường tráng của một bậc quân vương, hay dinh lũy uy nghi của một triều đại, ta cứ   ngắm mãi chúng bằng thứ vật thể đang lưu chảy trong ta, cũng là lưu chảy trong những kẻ tạo tác của nghìn năm trước, và chợt hiểu ra năm tháng đã luôn bày ra những cuộc cãi cọ giữa tiếng khóc và nụ cười, vào những hôm mãi mê nghĩ về tiếng nói của muôn sinh, ta cứ thấy rối tung lên nhũng ý nghĩ kỳ dị tựa hồ những thế lực ám muội nào đó đã xâm nhập vào ta, tại sao con chim lại không nói được tiếng người, tại sao con người lại không nói được tiếng cá, ta gần như hụt hơi vì những câu hỏi như thế cứ nối đuôi nhau, từ ngày này sang ngày khác, từ đêm này sang đêm khác, có những đêm ta quyết không thèm nghĩ nữa, để ngủ, và chúng, cái đám câu hỏi bất tận ấy đã cơ cấu lại thành những giấc mơ, tại sao con cá lại không nói được tiếng cóc ếch nhái, và cái giấc mơ ấy lại cơ cấu lại ta, biến ta thành kẻ ăn nói lung tung, trong thứ giấc mơ có cóc ếch nhái, trong thứ giấc mơ giữa lúc đang thức ấy, ta đã đề ra những thuyết lý có hình thù của những cái bong bóng mưa, có nghĩa, vừa buột nghĩ, đã thấy sụp đổ tan tành, con người thuở đầu là nói bằng tiếng của cóc ếch nhái, nhưng tiếng cóc ếch nhái thì chẳng thể diễn đạt những giả dối, bèn chuyển sang nói tiếng nói của giun dế, nhưng tiếng giun dế thì chỉ để mô tả những cay đắng lầm than, mà con người là cần sự chiến thắng, phải bước qua xác những kẻ khác, nên phải chuyển sang nói tiếng của cọp, nhưng tiếng con cọp là chẳng thể nói ra trong những phút yêu đương, nên con người phải chuyển qua nói tiếng nói của chim, tự thuở ban đầu là con người nói được tiếng của muôn loài, chẳng có thứ tiếng nói nào là con người chẳng nói được, nhưng chẳng có thứ tiếng nào là hợp với cái giống vật sở hữu lung tung thứ trên đời, cho nên trời đất, hay quỉ thần, hay là mặt trời mặt trăng, ai mà biết, mới đem chia ra, đem khoanh ra, và ban cho mỗi một nơi một thứ giọng nói, để từ đó con người có thể ca ngợi nhau đến mực nào cũng được, chửi bới nhau đến mực nào cũng được, vào những hôm cái giấc mơ có cóc ếch nhái cơ cấu lại ta thì ta cứ có cảm tưởng là ta đang nói bằng tiếng của cóc ếch nhái, bỡi ta sắp sửa nói ra một lời chân thành nào đó thì cứ nghe từ trong cổ họng mình phát ra những âm thanh tựa hồ tiếng của cóc ếch nhái, vào những hôm như thế, những hôm có cảm tưởng mình đang nói tiếng của cóc ếch nhái thì ta lại hứng thú trở lại với những dấu tích, bậc quân vương nào vừa bước ra từ   trang sách cổ xưa, các người nghe đây, kẻ nào không theo ta là đồng đảng của lũ giết người, trang trước là lời hiệu triệu chống giết người của một bậc quân vương, trang sau là tiếng hô tiến quân, cuộc chống giết người đã được tiến hành trên khắp mặt đất, trang tiếp theo sau là lời chú của ai đó, chắc chẳng phải của một nhà chép sách quen tay, chữ nghĩa run rẩy tựa hồ như ai đó đã viết ra trong cơn giận dữ : khi con người kêu gọi chống giết người là khi con người sắp làm cuộc tiến quân giết người, hóa ra giết người với chống giết người là đều sinh ra từ dấu tích, tại sao là thế, những câu hỏi như thế là vẫn cứ vang lên thành dấu tích, tại sao con người hiểu được cả lịch sử của loài giống mình, hiểu được cả lịch sử của cái vũ trụ mình đang sống trong đó, nhưng lại chẳng hiểu về nhau, hay chưa chịu hiểu về nhau…

 

Câu trả lời cho những câu hỏi như thế là dường như còn bỏ ngõ, thưa tiên sinh. Nếu nàng không xen vào nói thì chẳng biết đến lúc nào ông lão mới ngừng hát. Có thể nói thế này không, thưa ông, có một người ra đi từ thời mông muội, cứ hát mãi hát mãi qua tháng năm, và chợt thấy mình bơ vơ giữa buổi văn minh   chói lọi. Tôi không gọi ông lão bằng tiên sinh như nàng. Và coi cuộc hát của ông là một cuộc ra đi. Cái cách không tỏ ra mình đang vui   khi có người hiểu mình là cách của một bậc cao thủ trong cuộc nhân sinh. Tôi thầm quả quyết đấy là một nhà hiền triết của thời hiện đại. Nhưng có phải là ông cũng cảm thấy là chúng tôi đang bơ vơ hay không? Tôi bắt đầu khai thác nhà hiền triết. Ông lão cũng đơn giản như chúng tôi. Hành trang cũng chỉ   có mỗi túi vải trên vai ( Xin nhắc lại, chỉ trừ lúc ngủ, còn lúc nào thì trên vai tôi và trên vai nàng cũng sẵn sàng chiếc túi hành trang) Từ lúc bước vào đình làng ông lão vẫn đứng, đến lúc ấy, lúc ngừng hát, ông mới ngồi xuống chiếc ghế gỗ cạnh đấy, và cũng chẳng buồn tháo túi vải khỏi vai. Khi đã bơ vơ thì một người cũng bơ vơ, mà trăm người nghìn người cũng bơ vơ. Ông lão nói. Thì ra đây là một nhà hiền triết cởi mở. Tôi nghĩ. Nhưng có phải là tiên sinh đang hát về nỗi bơ vơ của mình hay không? Nàng hỏi. Trước là thế, còn giờ thì ta hát cho cái đám cưới lớn nhất đang diễn ra trên mặt đất này. Ông lão đáp. Lúc đầu tôi cứ nghĩ ông lão muốn nói đến xu thế mới của loài người đương đại, xu thế kết hợp. Có nghĩa giờ thì ông không còn thấy bơ bơ, bỡi con người trên mặt đất này là đang muốn làm một cuộc kết hợp mới, một cuộc toàn cầu hóa? Tôi nói. Ông lão liền đính chính cách hiểu của tôi: Ta hát là hát cho cuộc hôn nhân đang diễn ra giữa văn minh và man rợ. Phải nói bấy giờ cả tôi lẫn nàng phải gắng lắm mới dấu được niềm kinh ngạc. Thưa, văn minh nào và man rợ nào? Nàng hỏi. Ông lão chợt đứng lên. Khi ta hát thì các người sẽ làm người nghe hát. Ông nói. Và ra hiệu cho tôi với nàng hãy theo ông. Chúng tôi liền nối gót theo ông lão. Khi ra tới sân đình làng, ông lại dừng lại, nhìn vào bên trong, làm như thể đang quên điều gì đó, mà theo tôi, cả ông lẫn chúng tôi là chẳng có gì để quên. Vậy mà ông đã thấy là mình đã quên. Chớ để vị thần làng của làng này nghĩ chúng ta là những kẻ không nhân nghĩa. Ông lão giảng giải việc chúng tôi quay trở vào đốt nhang nơi bàn thờ thần như là cách chào hỏi để ra đi. Cho đến lúc ấy chúng tôi mới quả quyết đấy là đình làng. Nhưng tiên sinh có nghĩ giữa vị thần làng với dân làng là có chuyện lủng củng nào đó hay không? Nàng đã nói ra niềm băn khoăn ám ảnh chúng tôi ngay tự lúc phát hiện ra cảnh nhang tàn khói lạnh ở một ngôi đình làng. Con người là lắm lúc cảm thấy mệt mỏi vì trên đầu mình   có quá nhiều thế lực vô hình. Ông lão nói. Và bảo tôi với nàng hãy cùng ông vào làng một chuyến cho biết.

 

ba mươi ba.
ở ngôi làng ấy. 

     Như một thứ định mệnh hài hước luôn phủ lên cái nhúm người cư ngụ nơi góc trời heo may gầy guộc. Cũng đủ cả những chi tiết núi sông để có thể dự vào hàng giang sơn gấm vóc, có điểu đây là thứ gấm vóc như còn nằm trong cuộc thể nghiệm của trời đất, cuộc thể nghiệm như một cách thức của tồn tại, có nghĩa, không còn thể ngiệm thì không còn tồn tại. Có thể là tự ngày người làng đầu tiên có mặt ở ngôi làng ấy, cuộc thể nghiệm ấy đã được coi như một thứ định mệnh có tính cách áp đảo, khó lường. Định mệnh thường là đi đôi với tín ngưỡng. Có tin, định mệnh mới có giá. Đằng này, có lúc người ta cố phủ nhận, thì nó vẫn cứ có giá. Trước sau gì răng cũng đen. Đấy là cái giá của nó. Có người đã thử đến lập nghiệp ở ngôi làng ấy, để thử cái giá ấy. Và một hôm, sáng ra vẫn trông thấy mặt trời, nhưng hàm răng trắng muốt năm xưa của mình đã hóa đen. Trong lúc anh ta hô hoán chuyện răng trắng của anh đã thành răng đen, thì vợ anh ta cũng phát hiện ra răng của mình cũng thế. Rồi tới đời con anh ta cũng thế, lúc sinh ra là răng trắng, rồi vào một hôm, sáng ra vẫn nhìn thấy mặt trời, nhưng hàm răng trắng của con anh ta đã thành răng đen. Xin nói gọn thế này: hễ sống ở ngôi làng ấy thì già trẻ lớn bé gì răng cũng đen. Vào cái thời tóc dài, răng đen, được coi như là vẻ đẹp của con người, thì ở ngôi làng ấy, trẻ già lớn bé gì cũng cảm thấy hạnh phúc. Trong khi ở những nơi khác, muốn có răng đen phải nhuộm. Thì ở ngôi làng ấy, những người con gái răng đen, “cười như mùa thu tỏa nắng”, mà chẳng phải nhuộm nhiếc gì cả. Mà có thứ vẻ đẹp nào là không được phổ biến trong nhân gian? Những người con gái răng đen ở ngôi làng ấy trở nên có giá trước thời cuộc. Có nghĩa, những đám rước dâu là liên tiếp xảy ra ở đấy. Và, trong các cuộc vu qui, xen vào niềm háo hức phu thê, là sự luyến tiếc. Phía sau là núi, bên tả bên hữu cũng núi, làng là chen lấn với tự nhiên, đất để làm ra cơm áo là của tự nhiên nhường lại, nói cách khác là xén bớt của tự nhiên, đói nghèo là chuyện thường trực của làng, nhưng kẻ ra đi nào cũng cảm thấy luyến tiếc mảnh đất tạo ra niềm hạnh phúc, dẫu là hạnh phúc đơn sơ. Nhưng thứ định mệnh nào cũng chẳng chịu để yên cho con người. Đã đến lúc nền hội họa của con người không còn đánh giá cao màu đen ở hàm răng con người. Cùng với cuộc cách mạng xóa bỏ tóc dài xảy ra trên mặt đất là cuộc xóa bỏ răng đen. Nói nôm na, đã đến lúc con người không còn thích để tóc dài, và không còn thích nhuộm răng đen. Nhưng ở ngôi làng ấy, cái định mệnh có tính cách áp đảo ấy chẳng đếm xỉa chi thứ mỹ học mới của con người. Có nghĩa, đã ở ngôi làng ấy, thì trước sau gì răng cũng đen. Lúc mới nổ ra cuộc cách mạng mỹ học về đen trắng, người làng ấy chỉ thấy buồn về hàm răng đen của mình.   Đến khi toàn thế giới người ta đều là răng trắng, bước ra khỏi làng nhìn thấy ai cũng răng trắng, người làng ấy mới cảm thấy hoảng hốt. Làm sao bây giờ? Đã có nhiều người bỏ làng đến sống nơi khác, và răng có hết đen hay không thì chẳng ai biết. Nhưng toàn thể những người còn sống trong làng thì tình hình vẫn như cũ, răng vẫn tiếp tục đen, và đám con cháu, lúc sinh ra là răng trắng, và về sau thì đứa nào cũng răng đen. Đám con gái trong làng chẳng còn dám để cho mùa thu tỏa nắng, có nghĩa, lúc cười thì phải lấy tay che miệng. Nhưng ngôi làng ấy thì đã được người ta gọi là làng răng đen tự lúc nào. Nên không phải chỉ con gái, mà cả con trai trong làng, hết thảy đều xuống giá trước thời cuộc. Người ta ngại cả việc cưới con gái làng ấy về làm vợ lẫn việc về làm dâu ở đấy. Hình ảnh hàm răng đen bỗng trở thành một thứ tai họa. Hay là do đất đai phong thổ mà ra? Cũng có chút tri thức kiểu ấy len vào   nhận thức của người làng. Nhưng cũng chỉ tới đó mà thôi. Thứ triết học dân giã vốn thấm đẫm trong tim óc những con người bao nhiêu đời phải chen lấn với tự nhiên mà sống, triết học cam chịu, rốt cuộc đã giúp cho người làng ấy coi chuyện răng đen cũng giống như chuyện đói nghèo vẫn diễn ra ở đấy. Có điều, khi cam chịu đến một mức nào đó thì nó hóa thành khối u buồn. Vào những lúc có vị nguyên thủ quốc gia có chút tấm lòng với dân với nước, thì cũng có phái đoàn này phái đoàn nọ được phái về làng ấy xem xét, khi là trên tinh thần xã hội học, tâm lý học, hay thần học, khi là trên tinh thần khoa học. Xét là xét vậy thôi, chứ răng thì vẫn cứ đen. Khối u buồn ấy vẫn còn nguyên giữa nền văn minh đương đại. Và cứ đêm xuống là ngôi làng như biến khỏi mặt đất.

 

ba mươi bốn.
các vị bồ tát thời hiện đại. 

     Ngay trong đêm đầu tiên đến làng, lúc người làng kéo đến nghe ông lão hát, tôi với nàng trò chuyện với người này người nọ, và đã có được những hiểu biết cơ bản về ngôi làng ấy. Nếu chính phủ không giúp, e đến một ngày nào thứ vi trùng ấy xâm nhập tới ruột gan. Bọn họ than thở thế, vì cứ tưởng chúng tôi là người của một phái đoàn chính phủ nào đó. Nền văn minh hiện đại quả đã thâm nhập tận nơi cao sơn cùng cốc. Người ta không còn nói đến thứ định mệnh có tính cách siêu hình, mà nhắc đi nhắc lại thứ định mệnh cụ thể có tên   là vi trùng xâm hại răng vốn được nói ra từ cửa miệng một nhà nghiên cứu khoa học nào đó. Chúng tôi bảo mình không phải người của phái đoàn nào cả, chỉ đi tìm con nước đầu nguồn con sông chảy qua   làng ấy cho việc thể nghiệm một tình yêu vĩnh hằng. Lần ấy là chúng tôi lần theo một chi lưu của con sông quê nàng và đã gặp ngôi làng ấy. Nhưng bọn họ chẳng cần biết thể nghiệm là sao, tình yêu vĩnh hằng là sao. Con vi trùng xâm hại răng, theo nhà khoa học nào đó, là nằm trong nguồn nước uống, nay bỗng   có người bảo là đang đi tìm con nước đầu nguồn của con sông chảy qua làng, bọn họ bám theo hỏi đủ thứ chuyện là phải. Cái lũ vi trùng phá hại răng là giống sinh trên cạn hay dưới nước? Nếu quả là sinh dưới nước thì có cách nào diệt chúng không? Dường ông lão biết tôi với nàng đang gặp nguy, nên đã chuyển qua một khúc hát khác, khúc hát về răng đen, nỗi luyến nhớ về vẻ đẹp của một thời. Quá khứ quả có sức lôi cuốn con người, khi con người biết cách đánh động nó. Giống như người làng, cả tôi lẫn nàng bấy giờ cũng bị ông lão dẫn dắt vào câu chuyện cổ tích. Nhưng lắng nghe một hồi thì biết là ông không còn hát về răng đen, mà chuyển qua cái đám cưới lớn của đương đại. Tôi hỏi có phải ông lão muốn chia xẻ nỗi buồn của làng hay không? Ai mà biết, cứ năm ba hôm lại đến hát cho cả làng nghe, ông nói toàn chuyện thế giới, cái đám cưới nào đó của thế giới, chỉ mỗi hôm nay là nói tới răng đen. Người làng bảo. Phải, ngay cả khi không hiểu hết, hay không hiểu được, tôi có   cảm tưởng tiếng hát của ông lão cứ như một thứ lời an ủi có tác động tức thì, có nghĩa những gì ông nói ra như một cách thức diễn giải về cuộc nhân sinh khiến cho người nghe cũng cảm thấy yên lòng. Một nhà truyền giáo? Nàng rỉ tai tôi. Nhưng là ông lão đang cổ vũ cho tôn giáo nào mà những   đoạn đường ông trải qua là vừa văn minh vừa man rợ?

 

Đói khát, dốt nát, và khốn khổ lầm than… là man rợ. Xin bình an cho những xác chết của những đứa trẻ không còn đủ sức chờ một cuộc di chuyển đến một nơi văn minh hơn nơi chúng đã chết, những xác chết vẫn nằm rải rác nơi những bụi gai đơn sơ trên những bãi cát đơn sơ như dài đến vô tận. Xin bằng an cho cả những nền văn minh đã lụi tàn và chưa lụi tàn. Xin bằng an cho hết thảy những vong hồn những kẻ đã nằm xuống vì sức công phá của man rợ.

 

Ông lão hát. Và, bỗng như mọi thứ đều biến khỏi mặt đất, giống như đêm trước, lúc tôi với nàng ngồi ở hè đình làng, là cả ông lão, cả người làng, cả tôi và nàng, như đều biến khỏi mặt đất, lúc ông lão ngừng hát. Và chính cái ý nghĩ chẳng có lý lẽ chút nào, là thần làng đã hóa thân làm kẻ hát rong, đã lôi tôi với nàng trở lại ngôi đình làng ấy. Và chính là tin mừng ấy đã giữ tôi với nàng ở lại nơi ấy, cái tin mừng được nói ra trong đêm ấy, từ cửa miệng của người làng, rằng sắp có một phái đoàn các nhà nghiên cứu khoa học về làng nữa. Và cũng chỉ là sáng hôm sau, khi chúng tôi thức dậy, thì thấy ở sân đình làng ngổn ngang những chi tiết của văn minh đương đại: Xe cộ, điện đài, máy quay phim, máy chụp ảnh. Và những con người, mới nhìn thoáng qua tôi cứ có cảm tưởng đó là những kẻ thông thái. Lần này thì cái khối u buồn của làng chắc phải tan tành mây khói. Tôi hào hứng nghĩ. Là người của một viện nghiên cứu khoa học? Nàng huých vào tôi, khẽ bảo. Tôi gật đầu, tỏ đồng tình. Thì cứ căn cứ theo tin mừng của người làng, chúng tôi nghĩ đấy là phái đoàn các nhà nghiên cứu khoa học. Làng răng đen. Phải. Vẫn ngôi đình làng ấy ! Người thanh niên phụ trách máy bộ đàm đang gào to lên trong máy. Hãy bảo chúng nó di chuyển nhanh lên, với coi chừng lũ ngựa làm hỏng hết   trang thiết bị. Người đàn ông mang kính trắng nói với tay phụ trách máy bộ đàm. Như thế là bầu đoàn của phái đoàn chẳng phải chỉ bấy nhiêu, mà còn có cả ngựa thồ còn đi ở phía sau. Và, nàng lại huých vào tôi : Xếp đấy. Cái buổi sáng mùa thu có vài miếng mây nhỏ lang thang trên bầu trời hơi có vẻ u buồn hóa ra là cái buổi sáng nền văn minh hiện đại mang binh lực đến tận chốn cao sơn cùng cốc để tấn công vào khối u buồn của một ngôi làng, cuộc tấn công có vẻ như là cuộc kết hợp giữa sức mạnh truyền thống với   sự thông thái đương đại. Xin bằng an cho cả   những người có răng đen đã nằm xuống và cả những người có răng đen còn sống. Trong lúc chúng tôi sắp xếp hành trang vào một góc, để nhường gian đình làng cho phái đoàn làm tổng hành dinh của cuộc tấn công, nàng lại bắt chước cách hát của ông lão để   hát tặng những con người sắp thoát khỏi thứ định mệnh hài hước. Xin lỗi, các vị là thuộc phái đoàn nào? Người đàn ông mang kính trắng tiến về phía chúng tôi, hỏi. Biết trước thế nào bọn họ cũng hỏi chúng tôi là thuộc phái đoàn nào, bỡi theo người làng, từ ngày nền khoa học thâm nhập vào cuộc sống ở đó, thì đã có quá nhiều phái đoàn nghiên cứu đến làng ấy, và cứ theo cuộc điện đàm   vừa nghe được (làng răng đen, phải, vẫn ngôi đình làng ấy) thì chính bọn họ đã từng về làng ấy, cái đình làng đã từng là tổng hành dinh trong cuộc hành binh lần trước. Bấy giờ tôi với nàng cũng thấy háo hức được xem bọn họ tấn công lũ vi trùng xâm hại răng bằng cách nào, nên cứ thật thà khai ra là mình đang đi tìm con nước đầu nguồn của một dòng sông cho cuộc thể nghiệm tình yêu vĩnh hằng. Ô, là thế. Vị chỉ huy trưởng của phái đoàn kêu lên thế. Đến lúc ấy, tôi mới bắt đầu nghĩ ông ta là người đứng đầu của phái đoàn nghiên cứu. Chuyện tình yêu vĩnh hằng có vẻ có tác động khá mạnh đối với vị chỉ huy trưởng và một người nữa là cô gái có bộ ngực khá lớn và đôi mắt rất tình tứ, bấy giờ tôi cứ có cảm tưởng đấy là nhân vật quan trọng của đoàn nghiên cứu khoa học. Cô gái mang cả máy tính xách tay đang thao tác đến ngồi cạnh vị chỉ huy trưởng, vừa thao tác máy, vừa lắng nghe cuộc chuyện trò giữa ba chúng tôi. Nói là ba chúng tôi, nhưng thật ra lúc vị chỉ huy trưởng chất vấn về chuyện tình yêu vĩnh hằng, tôi chỉ để cho mỗi nàng thuyết minh, còn mình thì cố phán đoán phái đoàn ấy là phái đoàn gì? Coi chừng lũ ngựa làm hỏng trang thiết bị, kỳ này là xử lý nước ở trên sông trước! Tay phụ trách điện đàm lại quát to lên ở trong máy. Có lẽ đoàn người ngựa còn đi phía sau là rất quan trọng, nên tự nãy giờ tôi thấy tay phụ trách điện đàm chẳng dám rời máy. Một đơn vị nghiên cứu khoa học thực sự? Mọi họat động ở khu đình làng lúc bấy giờ là có vẻ rất phù họp với phán đoán của tôi. Tất cả là đang khẩn trương và nghiêm túc. Máy quay phim là đang chỏ về phía dòng sông ở trước đình làng, người phụ trách máy luôn tay điều chỉnh máy, khi sang trái, khi sang phải, khi cất lên, chúc xuống, làm như sắp phác hiện được, hay đã phác hiện được những tác nhân của thứ định mệnh hài hước đang ẩn nấp đâu đó trên sông. Hóa ra người ta đã thiết kế sẵn nơi làm phim ảnh ngay trên đám xe cộ đậu trước đình làng. Tôi thấy mấy tay thợ ảnh từ trên chiếc xe tải bước xuống, tay cầm mấy bức phim ảnh, hình như là vừa mới làm xong, vừa đi, vừa xem, và hô hoán lên rằng có quá nhiều loài sâu đang sống trên đám cây cối vừa mới chụp được trên con đường vào làng. Nhưng đấy chỉ là thứ suy nghĩ xa xí! Trong lúc mấy tay thợ ảnh hô hóan có sâu ở trên cây, tôi thấy cô gái phụ trách máy tính ấn ngực mình vào vị chỉ huy trưởng, và kêu lên thế. Tôi biết là cô gái chẳng phải bài bác chi thứ tình yêu vĩnh hằng nàng đang thuyết minh cho người đứng đầu đoàn nghiên cứu khoa học nghe. Và cũng biết là nàng đang thích thú thuyết minh theo cách của nàng vì vừa nhìn thấy được một ngõ ngách cuộc đời có thể mở ra trò đùa nghịch. Ký cho em, xếp! Cô gái phụ trách máy tính lại ấn ngực nữa vào người chỉ huy của mình, và chìa máy tính ra. Chẳng biết đấy là văn bản chi, nhưng khi vị chỉ huy cô ta đặt tay lên những con chữ trên máy tính, tôi đã nhìn thấy vẻ hốt hoảng hiện ra trên khuôn mặt ông ta. Dường như là cô gái đã dùng một thứ siêu ngôn ngữ cho công trình nghiên cứu riêng nào đó của cô ta và vị chỉ huy cô ta, ký ở đây là chẳng phải theo nghĩa thông thường. Xét cho nghiêm túc thì đấy là thứ suy nghĩ xa xí! Người chỉ huy trưởng lập lại lời của cô gái, sau khi đã viết ra những gì đấy trên máy tính mà cả tôi lẫn nàng đều không tiện nhìn thử. Thứ xa xỉ cô gái nói, và vị chỉ huy cô ta lập lại, là tình yêu vĩnh hằng chúng tôi đang tìm kiếm. Đến lượt tôi với nàng cảm thấy hốt hoảng. Đang thích thú, nếu không nói là đang mê say nghe nàng thuyết minh về tình yêu vĩnh hằng, tay chỉ huy trưởng của đoàn nghiên cứu bỗng xoay một trăm tám mươi độ, bắt đầu cuộc tấn công vào chúng tôi. Giữa   thế kỷ khoa học này thì thứ vật phẩm các vị đang tìm kiếm là không thể có, trong môi trường trong lành của thời đại tìm đâu ra những mơ hồ trừu tượng, thứ vật phẩm các vị gọi là tình yêu vĩnh hằng chỉ là hồn ma bóng quế vất vưởng giữa thời khoa học ngự trị. Khi đột ngột bị tấn công, chúng tôi có cảm thấy hốt hoảng thật, nhưng cũng liền lắng dịu, bỡi cách tấn công của tay chỉ huy đoàn nghiên cứu có vẻ như để hàn gắn sự rạn vỡ nào đó vừa xảy ra ở người thư ký của mình hơn là nhằm phản biện chúng tôi. Bấy giờ thì cả tôi lẫn nàng đều nghĩ   cô gái là thư ký riêng của ông ta. Chúng tôi đang lắng nghe những ý kiến quí báu của ngài đây. Nàng đã chuyển cách gọi “ông” sang cách gọi “ngài”. Cũng chẳng hiểu có phải cách gọi ấy làm ông giận dữ, hay ngài chỉ huy vốn giàu lòng trắc ẩn, ông bỗng chuyển sang cách nói có thể nói là   đang giận dữ cũng được hay đang xúc động mạnh cũng được.

 

Phải nói là cho tới thế kỷ này thì những ước mơ của con người đã trở thành sự thật, con người đã có thể đặt chân lên những hành tinh xa lạ, thì con người là con chim chứ còn gì, bay, vươn tới những khoảnh trời cao như thế là bay, chỗ này là có sự sống, chỗ kia là không có sự sống, con người là do cái gì mà có, con chim con cá là do cái gì mà có, biết được những việc như thế thì chẳng phải con người đã đạt tới cõi thần thánh ư, chưa hết, là chẳng phải là thần thánh sao khi con người đã nhìn thấy được cái tấm bản đồ vẽ nên hình hài thịt xương con người, tấm bản đồ gen.

 

Không khí của gian đình làng như đang chùng xuống, khi vị chỉ huy đoàn nghiên cứu rút khăn tay lau mắt. Cũng may, niềm xúc động trước những thành quả văn minh của ngài chỉ huy chỉ lây lan sang cô thư ký của ông ta, chứ không lây lan sang tôi với nàng. Cô gái cũng rút khăn tay lau mắt. Quả là nàng đã mất hết khí thế để tiếp tục trò đùa nghịch, khi mọi thứ xảy ra quá bất ngờ ( Đi nói về tình yêu vĩnh hằng trước người đàn ông mà nàng cho là người tình của cô gái cũng đang ngồi nghe nàng nói !) Còn tôi, cũng lâm vào tình thế chỉ còn ngồi im lặng trước những sự việc xảy ra quá bất ngờ. Đã gần đến nơi chưa? Trong lúc tay phụ trách điện đàm quát lên ở trong máy, ngài chỉ huy đoàn nghiên cứu kéo cô thư ký của ông ta đứng lên. Tôi với nàng cũng đứng lên. Xin chào các vị, chúng tôi phải đi làm công việc của mình. Ngài chỉ huy đoàn nghiên cứu nói. Cứ tưởng ông ta và cô thư ký của ông ta đến chỗ điện đàm. Nhưng không phải. Lần này là ông nói thẳng với tôi và nàng.

 

Lúc mới bước vào đây cứ ngỡ các vị cũng là những nhà nghiên cứu khoa học như chúng tôi, những người cả đời chỉ lo cho hạnh phúc kẻ khác, cả đời chỉ lo cho mỗi chuyện cứu độ chúng sinh, thật quá buồn cười, giữa lúc chúng tôi đang đau khổ cho nỗi đau khổ của một ngôi làng suốt bao nhiêu đời chịu nỗi đau mất mát, thì lại có những kẻ chỉ lo cho hạnh phúc riêng mình…

 

Chắc là xúc động lắm, nên bấy giờ tay chỉ huy trưởng của đoàn nghiên cứu khoa học như chỉ còn thì thào. Còn tôi, bấy giờ vì lòng tự ái quá lớn, tôi cứ muốn hét lên : đồ giả dối. Nhưng cũng may là kịp kiềm chế. Chẳng có chuyện cứu độ nào hết. Đồ giả dối. Tôi chỉ hét to những lời ấy trong ý nghĩ. Ta về thôi anh. Còn nàng, tôi biết, khi rỉ tai tôi thế, là nàng đặt tình yêu chúng tôi trên lòng tự trọng. Có nghĩa, chúng tôi phải cảm thấy xấu hổ một khi có ai đó bảo là mình chỉ lo cho riêng mình. Như thế là tôi với nàng chẳng thể xem đoàn nghiên cứu khoa học họ tấn công nỗi buồn của ngôi làng ấy bằng cách nào. Chờ cho tay chỉ huy trưởng và cô thư ký của ông ta khuất dạng nơi bờ sông là chúng tôi khăn gói quay về. Chuyến đi coi như không thành. 

 

ba mươi lăm.
cuộc tống tiễn mùa đông.

Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm bảo nó là ngọn gió thổi lại từ mấy trăm năm trước. Bảo đấy là ngọn gió, thì cũng chỉ là một sự bất lực trong ngôn ngữ. Thứ sự kiện lịch sử kỳ dị ấy quả tình là rất khó diễn đạt thành khái niệm. Mới đầu là xảy ra đâu tận bên tàu bên tây. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm nói. Như thế thì đấy là gió ở ngoài thổi vào, gió ở tận đâu rất xa thổi tới. Ngôi làng chúng tôi dừng lại lần ấy cũng là làng quê cày cuốc, nhưng thời nào ở trong làng cũng có người học rộng. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm cũng là người học rộng. Nhân loại là loài giống kỳ cục, khi có ngọn gió nào mới thổi tới thì bảo là thức tỉnh, là tân dân, ra sức đón nhận, làm như ngọn gió mới ấy là làm thay đổi được mọi thứ của con người, nhưng khi gió tan rồi lại thấy giật mình. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm nói. Chúng tôi hỏi sao gió tan rồi lại thấy giật mình, thì ông chỉ im. Tôi với nàng bảo câu chuyện về ngôi làng ấy có vẻ huyễn hoặc là do mỗi thời người làng ấy lại thêm vào một chút, thành ra không còn phân biệt được trắng đen. Nhưng ông trưởng làng sắp mãn nhiệm bảo huyễn hoặc là một phía khác của cuộc sống, không có huyễn hoặc là không sống được. Thôi thì cứ coi như lời giải đáp là còn nằm trong câu chuyện lịch sử của làng. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm bảo lúc ngọn gió ấy thổi tới làng ấy thì ông còn là viên chức của chính phủ, có tra cứu thử sách vở thì biết lúc bấy giờ là trên thế giới còn có vua.   Nhưng theo chỗ chúng tôi hiểu thì có vua là cả một câu chuyện dài của nhân loại. Như cách nay ba bốn nghìn năm, theo sử chép, thì đã có vua. Như thế ngọn gió ấy đã thổi lại cách nay ba bốn nghìn năm? Còn trước ba bốn nghìn năm, tức trước khi có sử, thì đã có vua chưa, mà giả như đã có vua, thì đã có ngọn gió ấy chưa, thì cũng chẳng ai biết. Còn như những nơi có vua, khi ngọn gió ấy thổi đến, thì chuyện xảy ra có giống với chuyện đã xảy ra ở ngôi làng ấy hay không? Lúc chuyện xảy ra thì chức trưởng làng là do vua cử. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm nói. Chúng tôi hỏi căn cứ vào đâu để nói thế. Thì ông bảo là căn cứ vào văn tế lễ “tống tiễn mùa đông”. Sở dĩ chúng tôi dừng lại ở ngôi làng ấy là cũng tại cái cuộc tế lễ lạ đời ấy. Chuyện lễ tế tống tiễn mùa đông sẽ nói sau. Còn bây giờ cứ xem như lúc ngọn gió thổi tới làng ấy thì chức trưởng làng là do vua cử. Lúc còn làm ở “nông vụ viện”, tôi có đọc một số sách vở nói về những cuộc nổi dậy của người cày ruộng trên thế giới, thấy nhiều nơi cũng xảy ra chuyện giống với   chuyện ở làng này. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm nói (Nông vụ viện là cơ quan của chính phủ, nói ông trưởng làng sắp mãn nhiệm là viên chức   chính phủ bỡi một thời ông làm việc ở cơ quan này) Theo cách mô tả của ông trưởng làng sắp mãn nhiệm thì mới đầu là giết vua, nhưng chẳng phải để đoạt ngôi, cũng chẳng phải để lập vua khác, mà giết vua là để không còn có vua, nói cụ thể hơn cái ngọn gió ấy mới đầu là có vẻ muốn làm sụp đổ hết thảy các ngai vua trên mặt đất. Có nơi, sau khi dẹp được ngai vua, người ta đuổi vua về làm dân dã, hay đuổi vua ra khỏi nước. Khi ngọn gió ấy mới nổi lên thì người ta làm theo cách ấy. Nhưng dường như là nhân loại mỗi ngày mỗi thích làm cách mới hơn, nên về sau người ta không đuổi vua khỏi ngai vàng, mà làm cho vua biến khỏi mặt đất. Tức, mang vua ra treo cổ, hay chém cổ. Mà theo ông trưởng làng sắp mãn nhiệm, trưởng làng lúc bấy giờ là do vua cử, nên ở trên người ta treo cổ vua, thì ở làng ấy người ta cũng treo cổ trưởng làng. Treo cổ trưởng làng xong, dân làng lại cử trưởng làng khác. Có nghĩa, cái ngọn gió ấy đã khiến cho dân làng ấy làm chủ được chuyện cử trưởng làng của mình. Sau đấy thì làm chủ được nhiều thứ khác. Cho nên mới nói là đã mở ra thời dân chủ. Nhưng đấy là chuyện sau đấy. Còn lúc bấy giờ, cử trưởng làng xong thì cả làng nhảy múa, hò hét, rằng kể từ nay thì chẳng còn ai đè đầu cỡi cổ mình nữa. Nhưng lúc cử trưởng làng mới người làng đâu biết đấy lại là kẻ thích chuyện đè đầu cỡi cổ. Phải trị những đứa cứng đầu cứng cổ mới được. Đấy là cái cách làm cho xóm làng bình yên của ông trưởng làng mới. Làm trưởng làng một tháng, ông treo cổ đến mấy chục người làng. Đấy là những người hò hét to nhất trong cuộc bầu trưởng làng. Gò thổ mộ chôn người chết trong làng có tên “gò âm hồn” từ đó. Nhưng có phải sau đó thì ngọn gió ấy không còn thổi nữa hay không? Chúng tôi hỏi. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm bảo ông cũng chẳng biết phải nói thế nào cho phải lẽ, có điều sau đó thì trên thế giới người ta đã chép thành kinh thành sách, nói rõ gốc ngọn, cùng ảnh hưởng của ngọn gió ấy đối với việc sống còn của nhân loại. Theo cách mô tả của ông thì trong vòng năm mươi năm, tính từ khi ngọn gió ấy thổi tới làng ấy, lúc thì   có vua, lúc không có vua, trưởng làng của làng ấy khi do vua cử, khi do dân làng cử, và khi thì dân làng treo cổ trưởng làng, khi thì trưởng làng treo cổ dân làng, ông trưởng làng sắp mãn nhiệm bảo trong vòng năm mươi năm ấy cũng gần cả nghìn người bị treo cổ, đêm người ta nghe thấy ở “gò âm hồn” tiếng cãi vả nhau về chuyện ngọn gió ấy, cứ đêm xuống thì dường như cái đám người bị treo cổ ấy lại tụ hội lại để cãi vả nhau, hết cãi vả thì nguyền rủa, hò hét,   làm như là sắp tấn công vào ngọn gió ấy, ông trưởng làng sắp mãn nhiệm nói tới lúc ấy thì dân làng mới dựng “miếu âm hồn” ngay trên “gò âm hồn” để thờ đám người bị treo cổ, và phải đợi đến khi một bực học rộng ở trong làng nghĩ ra lễ tống tiễn mùa đông thì mọi chuyện mới êm. Chúng tôi đang trên đường đến thượng nguồn một nhánh sông của con sông quê nàng thì bắt gặp đám dân làng ấy đang cử hành cuộc tế lễ kỳ dị ấy. Thưa, có phải là làng đang mở hội vui? Chúng tôi hỏi một bà lão đang ngồi ở hè “miếu âm hồn” nhìn những người khác đang nối đuôi nhau đi vòng quanh ngôi miếu cổ. Vui gì, đang tế âm hồn đấy! Bà lão nói. Gió ơi gió hỡi, gió đi thật xa…hồn ơi hồn hỡi… Có một người trong đám người đang nối đuôi nhau ấy xướng lên thế. Và tất cả những người còn lại   xướng theo. Là hát vè thôi. Nhưng ở làng ấy người ta bảo là văn tế. Một người học rộng ở trong làng khi nghĩ ra lễ tống tiễn mùa đông đã kiêm luôn việc làm trưởng tế, với soạn văn tế. Và những thế hệ tiếp theo đã giữ nguyên lệ ấy. Sau đó chúng tôi mới biết trưởng tế là ông trưởng làng sắp mãn nhiệm. Còn lúc nghe bà lão bảo đấy là tế âm hồn, chúng tôi cứ nghĩ trưởng tế là một thầy phù thủy. Có nghĩa là kẻ sai khiến được ma quỉ. Thì tôi cũng là một tay phù thủy của thời hiện đại, làm công việc xua đuổi một dòng tư nghị cố cựu của loài người, chẳng phải phù thủy là gì? Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm nói   khi nghe chúng tôi thuật lại những cảm nghĩ của mình lúc mới trông thấy cuộc lễ tống tiễn mùa đông. Tế văn không phải văn bản có sẵn, mà được vị trưởng tế là người học rộng ứng khẩu xướng lên khi hành lễ. Có lẽ do yêu cầu này mà hơn một trăm năm qua, lúc nào trong làng cũng có người học rộng. Hãy làm như đã quên ngọn gió tai họa ấy, và cứ coi như mấy tiếng dân chủ như là lời ma quỉ. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm bảo đấy là nội dung chủ yếu của tế văn. Có nghĩa, lời có thể thay đổi tùy theo mỗi vị trưởng tế, còn ý thì không? Chúng tôi hỏi. Phải, hơn một trăm năm qua người làng luôn giữ lấy cái hồn của tế văn. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm nói. Tôi và nàng dừng lại ở ngôi làng ấy vào những ngày cuối thu. Gió chướng từ phía thượng nguồn của sông đã bắt đầu thổi lại. Có nghĩa đã bắt đầu nhìn thấy dấu hiệu của giông bão mùa đông. Người làng ấy muốn xua đuổi ngọn gió mà người ta cho là tai họa   như xua đuổi giông bão mùa đông. Chúng tôi đã hiểu tại vì sao lại gọi là lễ tống tiễn mùa đông. Nhưng chưa hiểu tại vì sao tế lễ mà làm như là một cuộc đùa vui. Nối đuôi nhau, vừa đi vừa hát thế chẳng phải đùa vui là gì ? Một cuộc đùa vui để quên đi một cuộc đùa vui khác đã làm tốn kém rất nhiều máu xương con người ? Tôi với nàng chỉ rỉ tai nhau thế, chứ chẳng dám nói ra 

 

ba mươi sáu.
giông tố.  

   “Đã biết nhau đến bạc đầu mà còn rút gươm ngờ nhau”

Tôi muốn đem câu thơ cổ ấy để đề tặng cho ngôi làng ấy. Nhưng lại ngần ngại, không biết hàm ý của thơ có hợp với cái biến cố đã xảy ra ở làng ấy hay không? Sở dĩ chúng tôi còn nấn ná, chưa đi, là để xem cho biết cách cử trưởng làng của người làng ấy. Và đương không lại hóa thành nạn nhân của cái biến cố được coi như một thứ sự kiện lịch sử   kỳ dị. Có thể nói sau hơn một trăm năm bình yên thì giông tố đã ụp xuống ngôi làng cứ sắp đến mùa đông thì người làng lại nối đuôi nhau đi vòng quanh ngôi miếu cổ ấy để làm công việc xua đuổi một ngọn gió mà người ta coi như một thứ tai họa. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm nói với chúng tôi lần này chẳng có ai tự ra ứng cử chức trưởng làng, trừ một người là ông thầy hốt thuốc nam đã thôi làm nghề thuốc để đi buôn cao ngựa. Ông ta nộp đơn xin ứng cử chức trưởng làng xong, lại tiếp tục cuộc thương hồ. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm nói. Vị ứng   viên chức trưởng làng lại là tay buôn cao ngựa đã lập tức thu hút sự hiếu kỳ của nàng. Ta nán lại cho đến khi bọn họ cử xong trưởng làng rồi hãy đi. Nàng nói. Thì cuộc tìm kiếm   của chúng tôi có gì cấp bách đâu mà phải vội. Quả tình cái ông buôn cao ngựa, ứng viên chức trưởng làng ấy, cũng là kẻ lạ đời. Người ta cứ nghĩ nghề thuốc gia truyền nhà ấy sắp bị thất truyền. Bỡi ông thầy thuốc nam nổi tiếng, cha đẻ của ông ta chết, ông ta vẫn tiếp tục việc cày ruộng. Không nối nghiệp làm thuốc của ông cha, nhưng vẫn vừa cày ruộng, vừa đọc sách thuốc. Rồi đùng cái, tới tuổi năm mươi, tới cái tuổi tri thiên mệnh, ông ta   bỗng nghỉ cày ruộng, bắt đầu làm thuốc. Giữa thời buổi tây y như đang ngự trị nền y học hiện đại, thì ông lại nghĩ ra được, cứ cho là thế, chứ chẳng dám nói là phát minh, việc chữa trị bệnh sưng cổ họng bằng phương thức thuốc nam. Trong tây y thì bệnh ấy thường phải mổ xẻ mới khỏi. Nhưng với ông thì chỉ điểm huyệt theo cái kiểu điểm huyệt trong kiếm hiệp. Và cái thang thuốc nam kèm theo điểm huyệt có phải là thuốc chủ yếu trong trị bệnh hay không, chẳng ai biết. Trị bệnh cốt ở tấm lòng. Lời của ông thầy thuốc ấy là do ông trưởng làng sắp mãn nhiệm thuật lại với tôi và nàng, cho nên là chuyện thật. Ông chữa đâu bệnh khỏi đó, cả trong tỉnh lẫn ngoài tỉnh, đều kéo tìm ông chữa bệnh sưng họng, cũng là chuyện thật. Mười năm ấy biết bao nhiêu là người sưng họng uống thuốc của ông để hết sưng họng. Để đến nỗi người ta không còn biết ông là ai. Khi hỏi thăm đến nhà ông bác sĩ họng, tức là khi người ta không còn biết ông là ai. Rồi đùng cái, tới tuổi sáu mươi, cái tuổi gần đất hơn là gần trời, ông bỗng dưng bỏ nghề thuốc, đi buôn cao ngựa. Tìm đến tận những cao nguyên cao nhất trong châu lục để gặp tận mặt những người chuyên nấu cao ngựa bạch. Chốn thương hồ cũng là chốn giang hồ. Mà ông lại là thương nhân độc sáng. Không buôn thứ gì khác mà buôn cao ngựa bạch là độc sáng. Nên chuyện gươm đao cũng dễ xảy ra dưới ánh mặt trời. Thì cũng chỉ là nghe bà vợ ông ta kể lại. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm nói. Vào một buổi chiều hôm người ta nghe có tiếng nhạc ngựa, mỗi lúc một gần. Sau khi trao cho vợ một khoảng tiền không lớn lắm, và dặn “ kỳ này ta ra ứng cử chức trưởng làng đấy”, vị thương khách lại lên ngựa, tiếp tục cuộc thương hồ. Máu. Ông đi rồi bà vợ ông mới phát hiện thấy những vệt máu còn tươi rói dính ở tấm khăn tay gói tiền. Thương trường quả là chiến trường. Bà vợ của ông cũng chỉ còn biết buông tiếng thở dài. Thì cũng chỉ là nghe bà vợ ông ta thuật lại. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm nói. Nói nộp đơn ứng cử chỉ là cách nói cho có vẻ long trọng. Chứ thực ra là chỉ có bà vợ ông ta đến gặp ông trưởng làng sắp mãn nhiệm để thuật lại lời dặn của ông ta. Hóa ra   ông trưởng làng sắp mãn nhiệm lại mang ơn vị khách thương hồ. Ông ấy mà không ra ứng cử thì ông trưởng làng sắp mãn nhiệm giao chức trưởng làng cho ai? Hơn một trăm năm qua, cũng lắm lúc chẳng ai chịu   ra ứng cử chức trưởng làng, chứ chẳng phải chỉ mỗi lần ấy. Làm trưởng làng bỗng lộc chẳng là bao. Mà ở làng ấy, trưởng làng còn phải có học rộng để ứng khẩu tế văn cho cuộc lễ tống tiễn mùa đông. Cho nên, người làng cũng thấy mừng khi nghe đã có người ra ứng cử. Cũng có tiếng vào tiếng ra, khi nghe ông ấy ra ứng cử, chứ chẳng phải là không. Đã từ lâu người ta cho là ông ta lấy cớ đi buôn cao ngựa để đi làm chính trị. Thì cũng chỉ là xì xào. Chứ đi làm chính trị là làm những gì, người ta đâu giải thích được. Cũng có người cho rằng cái bài thuốc chữa bệnh sưng cuốn họng bây giờ là cao ngựa bạch. Hay bôn ba chốn thương hồ lại là cách làm việc nghĩa? Phải nói là có một luồng không khí có vẻ bí ẩn đang bao quanh   con người sắp đảm nhiệm chức trưởng làng ấy. Chuyện người ta mà tôi với nàng cũng cảm thấy háo hức. Háo hức là vì giữa thời buổi hiện đại lại sắp được gặp mặt cái con người có thứ khí cốt giang hồ cổ kính. Cũng chỉ còn vài hôm nữa là đến ngày cử trưởng làng thì xảy ra biến cố ấy. Sáng hôm ấy, trời còn tinh mơ, chúng tôi đã đến nhà ông trưởng làng sắp mãn nhiệm. Là do trong đêm tôi với nàng chẳng ngủ được. Thức để cãi nhau về việc làng có cử trưởng làng mới được hay không? Được chứ sao không. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm bảo. Một trăm người ứng cử, cũng cử một người, mà một người ứng cử cũng cử một người, chỉ khi nào chẳng ai ra ứng cử thì làng mới đề cử, cử một người tự ra ứng cử thì cũng như đề cử. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm giải thích thêm. Nhưng đến ngày cử trưởng làng mà ông ấy không về thì làm sao? Chúng tôi hỏi. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm bảo bấy lâu người làng cũng có nghi ngờ về chuyện có phải là ông ấy đi làm chính trị hay không, nhưng con người ấy thì xưa nay cả làng đều biết, ông đã nói là làm, chứ không phải nói rồi thôi. Lời ông trưởng làng như liền được kiểm chứng. Trong lúc chúng tôi trò chuyện thì nghe có tiếng nhạc ngựa đang tiến vào làng. Là ông ấy đấy. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm bảo, có vẻ rất phấn khởi. Nhưng nhảy xuống khỏi ngựa chẳng phải là ông thầy thuốc nam đi buôn cao ngựa. Ở trong nhà nhìn ra sân, chúng tôi thấy người kỵ sĩ vừa nhảy xuống ngựa là một chàng trai trẻ. Thưa, có phải đây là nhà ông trưởng làng hay không, thầy tôi gửi cho ông trưởng làng cái này.   Chàng trai đặt lên bàn một bọc giấy khá lớn, rồi vái chào, quay trở ra, lên ngựa, ra đi. Sắp có chuyện rồi. Nàng huých vào tôi, khẽ nói. Chúng tôi thấy như ông trưởng làng không còn giữ được vẻ điềm tĩnh thường ngày. Tay ông cứ run lên khi mở bọc giấy. Tiếng nhạc ngựa đã mất hút đâu tận phía cuối làng. Ánh nắng của buổi sáng cuối thu bắt đầu trải rộng trên sân. Ông trưởng làng không kịp đi lấy kính, chỉ nheo mắt đọc những tờ giấy lấy từ trong bọc ra, có vẻ vội vàng. Tôi linh cảm có điều gì đấy rất nghiêm trọng đang diễn ra, khi bắt gặp vẻ sợ hãi thoáng hiện trên gương mặt vị trưởng làng sắp mãn nhiệm. Là tờ rơi, các vị xem thử. Ông trưởng làng đưa cho tôi và nàng mỗi người một tờ giấy có cả hình ảnh và chữ. Là ông ấy đấy. Ông trưởng làng bảo, trong lúc tôi và nàng chưa kịp hỏi có phải   ảnh ở trong tờ rơi là của ông thầy thuốc hay không. Tôi phải chép ra đây nội dung của tờ rơi, coi như cương lĩnh trị nước của vị ứng viên chức trưởng làng, vì cứ sợ sau này có ai đó viết lịch sử của làng đó lại bỏ sót sự kiện quan trọng này. Và những gì tôi chép ở đây cũng chỉ là cái thần của cương lĩnh ấy, bỡi tôi chẳng thể nhớ một cách đầy đủ từng câu từng chữ.

 

Kẻ này mà được làng tín nhiệm cho làm trưởng làng thì sẽ nguyện đem hết tâm sức ra mà lo việc làng nước, bỡi bấy lâu kẻ này nhìn thấy ở trong làng việc dân làm chủ như không còn nghe thấy ai nhắc đến, nếu không nói là dường như mọi người đã lãng quên thứ tinh thần dân chủ, bỡi đây là buổi văn minh của loài người đã đạt tới đỉnh cao, cho nên con người sinh ra là phải biết thật rõ cái quyền làm chủ cuộc sống của mình.

 

Tôi xin đảm bảo với những ai muốn viết lịch sử của làng đó, thì những gì tôi chép ra đây là hoàn toàn chính xác. Có nghĩa là đúng với tâm nguyện của vị ứng viên chức trưởng làng đó. Ông trưởng làng sắp mãn nhiệm cũng khỏi phải tốn công sức trong việc đem tờ rơi ra dán ở nhà họp của làng. Bỡi cái tin đệ tử   ông thầy thuốc nam đi buôn cao ngựa đã phi ngựa về làng chỉ loáng cái truyền đi khắp làng. Loáng cái là người ta kéo tới đầy nhà ông trưởng làng sắp mãn nhiệm để xem cái cương lĩnh trị nước của ông thầy thuốc nam. Từ lúc ấy cho đến lúc biến cố ấy xảy ra thì tôi và nàng, cũng giống với những người trong làng, là không muốn rời khỏi ông trưởng làng sắp mãn nhiệm. Người làng, sau khi nhìn thấy cái cương lĩnh ấy thì muốn nghe ông trưởng làng sắp mãn nhiệm nói về tương lai của làng mình. Còn tôi với nàng thì cứ muốn biết một cách chính xác điều gì sẽ xảy ra sau đó với ông trưởng làng sắp mãn nhiệm. Hơn một trăm năm qua, người làng ấy vẫn sống trong bình yên, và cứ mỗi lần sắp bước vào mùa giông bão, người ta lại tụ hội lại để nhắc cho nhau hãy coi chuyện dân chủ như là lời của ma quỉ, giờ thì ông thầy thuốc ấy bỗng muốn khôi phục lại chuyện ấy. Làm sao bây giờ, nếu ông ấy lên làm trưởng làng? Thì cứ để cho ông ấy làm thử sao? Người làng thi nhau bình luận. Còn ông trưởng làng sắp mãn nhiệm thì chỉ im lặng, lắng nghe. Dường như người ta nằm nhà chẳng yên, cứ về đến nhà, thì lại quần trở lại nhà của ông trưởng làng sắp mãn nhiệm. Tôi thấy như bà vợ ông trưởng làng sắp mãn nhiệm có nỗi lo nào đấy, có phần khác với những người khác. Sắp có chuyện rồi. Nàng lại rỉ tai tôi, khi phác hiện ra việc bà vợ ông trưởng làng sắp mãn nhiệm đang âm thầm sắp xếp đồ đạc trong nhà, làm như là sắp đi đâu đó. Vào lúc chập choạng tối, giữa lúc người làng kéo tới nhà ông trưởng làng sắp mãn nhiệm đông hơn, thì nghe có tiếng nhạc ngựa đang tiến vào làng. Đã về rồi đấy. Có ai đó trong đám người làng nói. Ai đó nói là nói về ông thầy thuốc nam ứng viên chức trưởng làng. Một khoảng im lặng chợt trùm xuống mọi người. Tôi cứ nghĩ đến lúc ấy thì ông trưởng làng sắp mãn nhiệm sẽ nói ra một lời nào đó. Nhưng không phải ông, mà là cái ông lão đang ngồi uống trà với ông nói : Ngọn gió ấy lại thổi vào làng ta nữa rồi. Ông lão ấy vừa nói xong lời ấy thì hết thảy mọi người vụt đứng lên, chạy ra khỏi nhà ông trưởng làng sắp mãn nhiệm, làm như sau tiếng nhạc ngựa mỗi lúc một gần đó là cái cảnh treo cổ ghê rợn sẽ xảy ra. Ta cũng đi thôi. Tới lúc ấy bà vợ ông trưởng làng sắp mãn nhiệm mới chính thức hối ông ấy ra đi. Thì trong bối cảnh như thế đến tôi với nàng mà cũng hình dung ra cái cảnh treo cổ hãi hùng, huống hồ là người làng ấy. Ngọn gió ấy mà thổi lại nữa thì ông trưởng làng sắp mãn nhiệm phải đi đời thôi. Nàng kéo tôi ra hiên hè, rỉ tai. Tôi khẽ gật đầu, và bảo nàng từ giờ phút ấy trở đi là không được nói lời nào nữa. Mà đúng là đâu còn có thời giờ để nói. Phải nói bấy giờ là trong làng đang diễn ra cảnh chạy loạn. Có lẽ là mọi người đều nghĩ   ngọn gió ấy mà thổi lại nữa thì cảnh giết chóc nhau nhất định sẽ xảy ra, nên mới diễn ra cảnh ấy. Đương không tôi với nàng cũng phải theo người làng chạy loạn. Tôi với nàng cũng gói xách theo vợ chồng ông trưởng làng sắp mãn nhiệm để chạy loạn. Đương không cả tôi lẫn nàng cũng cảm thấy hãi hùng khi chạy ngang qua ngôi miếu âm hồn. Ngôi miếu thì đứng lặng lẽ trong đêm, nhưng từ những nẻo đường ra khỏi làng lại chốc   chốc vang lên những giọng hú gọi nhau đầy vẻ hoảng hốt. Có lẽ   vợ chồng ông trưởng làng sắp mãn nhiệm hãi lắm, lâm cảnh ai lại chẳng hãi khi nghĩ đến chuyện trưởng làng mới treo cổ trưởng làng cũ, hãi đến chẳng còn bước nổi, nên cứ bước mấy bước lại té ngã, thành ra hai người ấy phải bò. Có lẽ nỗi sợ hãi đã lây lan sang chúng tôi. Cứ bước được mấy bước thì tôi với nàng cũng té ngã. Nên tôi với nàng cũng phải bò. 

 

ba mươi bảy.
cuộc chuyển giao thế kỷ. 

     Hóa ra chuyến đi ấy, điều chúng tôi muốn tìm, chẳng thấy đâu, nhưng tôi và nàng thì luôn là nạn nhân của những sự kiện lịch sử kỳ dị. Lần trước là tôi với nàng phải bò ra khỏi ngôi làng ấy. Còn lần này thì phải nhờ đến sự dẫn dắt của một vị nữ thần xinh đẹp mới thoát khỏi tai họa. Cho đến khi thuật lại chuyện này tôi cũng chưa nghĩ ra được vị nữ thần là ai. Theo lời người làng, chúng tôi chỉ qua khỏi ngôi làng ấy là nhìn thấy được con nước đầu nguồn của nhánh sông chúng tôi đang theo đuổi. Cũng giống với những ngôi làng ở thượng nguồn, khi nhánh sông của con sông quê nàng chảy qua nơi này thì không còn được gọi là sông, mà chỉ gọi là suối. Quả là con suối định mệnh, bỡi chính con suối ấy đã dẫn dắt chúng tôi vào cái biến cố lịch sử có tính cách định mệnh theo nghĩa là nó phải xảy ra thế, chứ chẳng thể khác đi. Phải bắt con ma làng   đi ra đi vô theo ý của người làng mình. Đấy là lời vị trưởng làng nói với đám dân làng trong lễ cúng ma làng. Ở ngôi làng miền xuôi chúng tôi vừa mới thoát khỏi là lễ tống tiễn mùa đông. Còn ở đây là lễ cúng ma làng. Ở ngôi làng miền xuôi, vị trưởng làng chúng tôi gặp là sắp mãn nhiệm, còn ở làng này là vị trưởng làng mới, một vị già làng mới vừa được vị già làng cũ, người sắp rời bỏ thế gian, chuyển giao cho tất cả những quyền lực của một vị già làng. Nó đã quay về làng ta rồi đấy. Sau khi phun ra   một tràng dài những lời kỳ dị, vị già làng mới hô to lên thế. Và mọi người trong cuộc lễ lập tức cùng hướng mắt lên ngọn phướng đang rần rật bay trên đọt ngọn nêu và cùng xướng lên thứ âm tiết nghe như tiếng ù của một đám bò rừng. Còn con trâu sắp bị giết để hiến tặng con ma làng thì vừa chạy quanh cột nêu, vừa lồng lộn chòm lên, như muốn quay đầu húc vào đám người vây quanh, nhưng chẳng tài nào húc được bỡi đã bị cột vào cột nêu bẳng một thứ dây rừng đã được xe thành nài, một kiểu cột để cho con vật bị cột có thể di chuyển quanh cột nhưng chẳng thể thoát ra khỏi cái vòng tròn của sự chết đã được định sẵn. Nó, cái con ma làng ấy, sau khi nghe những mệnh lệnh của vị già làng, thì từ một chốn thâm u giang hồ nào đó đã quay về, không phải quay về để đi đây đi đó trong làng, mà phải ở yên một chỗ theo lệnh của già làng, cái ngọn cờ phướng ấy chính là chổ trú thân của con ma làng sau khi đã có lệnh của già làng, không phải gió, mà là do con ma cựa quậy, đã làm cho ngọn phướng bay rần rật trên ngọn nêu, nhìn ngọn phướng bay rần rật, vị già làng biết là con ma đã được triệu hồi. Làm sao có chuyện đó được. Sau khi nghe một chàng trai giảng giải cho nghe cách triệu hồi ma làng của vị già làng thì nàng buột kêu theo kiểu nhận thức bình thường của một người đang trong thời văn minh hiện đại. Bà lão đang đứng cạnh chúng tôi cau mày nhìn nàng, bảo đồ con kinh thì biết gì. Con kinh là cách gọi người miền xuôi của người làng ấy. Làm như thể nền văn minh hiện đại bỗng   nghiêng ánh sáng về phía bà cụ, còn bóng tối thì trút xuống những kẻ đại diện cho người miền xuôi đang thừa hưởng nền văn minh ấy là tôi với nàng. Trước mắt chúng tôi bấy giờ là hình ảnh của thời tiền sử, là tôi cũng dựa vào những gì đã đọc được qua sử sách mà suy nghĩ thế thôi. Bấy giờ thì cả vị già làng lẫn các tay đao phủ đều như đang say máu trước con mồi sắp chết, chỉ khác với thời tiền sử thì con mồi săn là đang chạy trong rừng, còn ở đây, con mồi là đang chạy quanh cây cột nêu. Sau khi vít cần rượu mấy mươi lần, có nghĩa đã cho vào bụng không biết bao nhiêu là rượu, vị già làng bắt đầu rống lên những tràng dài   nghe tựa tiếng gào của một con vật lạ lẫm nào đó, nhưng đấy chỉ là sự bất lực trong cách miêu tả của tôi, thực ra đây là lời mời gọi con ma làng nhận vật phẩm của cuộc hiến tế, giây phút sắp dâng vật phẩm quả là rất thiêng liêng, các tay đao phủ có vẻ mệt lã trong cuộc đuổi bắt con mồi, nhưng   chẳng có ai dám rời bỏ vũ khí trong tay là những dao, búa, gậy gộc, các tay đao phủ như vừa chạy, vừa hắt thứ hơi rượu đậm đặc từ trong người ra để lấy đà chạy, vừa dơ cao lên những dao búa gây gộc để bắt con mồi sắp bị giết phải chạy hết tốc lực, và, dường như cuộc săn đuổi phải được diễn ra trong cuồng nhiệt của kẻ say máu và sự khiếp hãi của kẻ sắp bị giết, dường như là   phải xảy ra trong thứ trạng thái cực điểm như thế thì cuộc hiến tế mới đạt được hiệu quả mong muốn, cho đến lúc con mồi như sắp quị xuống, thì kẻ cầm đầu đám đao phủ, tức vị đồ tể đã được người làng chọn từ trước, xoay nhẹ người một cái, dường như là chẳng thể nhìn thấy gì ngoài việc kẻ cầm đầu đám đao phủ xoay nhẹ người một cái, và tiếp theo là máu từ nơi cổ họng con mồi bị giết cứ tiếp tục vọt ra, cho đến lúc con vật hiến tế nằm yên trên đất, chúng tôi mới hiểu ra việc làm vừa qua của vị đồ tể là thật giản đơn, có nghĩa chỉ xoay người lại để thọc một nhát dao vào cổ họng con vật hiến tế. Hãy nghỉ ngơi trong đất của làng. Vị già làng lại hô to. Và đám người làng đang vây quanh vị chủ làng cũng hô to: Nó sẽ ở mãi trong đất của làng. Theo lời giải thích của chàng trai đứng cạnh chúng tôi thì vị già làng mới là vừa mới được vị già làng cũ giao cho thứ quyền năng sai khiến con ma làng, có nghĩa, đấy là lần đầu vị già làng mới lệnh cho con ma làng phải làm theo ý của người làng. Hay là chúng ta đã không hiểu hết sự khám phá đang diễn ra giữa chốn cao sơn cùng cốc? Nàng chợt rỉ tai tôi, khiến tôi cũng cảm thấy bàng hoàng trước cách thế tồn tại của nhân sinh, sự u ám tiền sử là ngang nhiên sánh vai cùng với những gì gọi là văn minh hiện đại. Chúng tôi cũng chỉ định dừng lại một lúc để xem cho biết lễ cúng ma làng. Nhưng khi sắp sửa lên đường tiếp tục cuộc tìm kiếm của mình thì dường có hằng vạn binh quân đang vượt qua vùng núi rừng đầu nguồn ấy. Sau đó chúng tôi mới rõ đó là tiếng vỗ trống, một thứ nhạc cụ làm bằng gỗ rừng và da thú rừng. Khi có tin đám người ở làng bên kia đã vượt sang con suối là đường biên giới của hai làng để săn con mang thuộc rừng núi của làng bên này, thì hết thảy những người trong làng đã mang trống ra vỗ. Cuộc cúng ma làng lập tức chuyển sang một cuộc quyết đấu. Quả tình những gì đang xảy ra ở đây là có sức thu hút rất lớn đối với tôi và nàng. Ta phải nán lại thử xem. Nàng nói với tôi. Thứ bản năng tri thức khiến tôi đồng tình ngay. Và chúng tôi lập tức theo vị già làng đến ngôi nhà chung của làng. Đã có rất nhiều người làng tề tựu sẵn ở đó để chờ vị già làng của mình. Khi ông ta bước vào thì mọi người đều quì xuống, và cùng ngẩng mặt lên trời. Sau đó chúng tôi mới hiểu những cử chỉ đó là biểu hiện của sự quyết chiến. Vị già làng cũng quì. Và bắt đầu hú gọi. Những tiếng hú là phát ra từ miệng ông ta, nhưng cứ nghe như đang vọng lại từ một thế giới hoang lạnh khắc nghiệt nào đó. Bỗng ông ta bước tới, rút xuống một cặp giò gà khô đang mắc ở nơi vách nhà sàn, và bắt đầu nói ra những lời kỳ dị như thể là đang phun ra vô số những phép màu. Hãy đánh nhau với nó cho tới lúc nó thua chạy mới thôi. Vị già làng vừa mân mê cặp giò gà, vừa hét lên thế. Cứ căn cứ vào những động tác của ông ấy, chúng tôi cũng đoán biết được là qua cặp giò gà khô, ông ta đang chi huy con ma làng của làng mình đánh nhau với con ma làng của làng bên. Tôi muốn tạm mượn ngôn ngữ hiện đại của loài người để nói đấy là chỉ huy cuộc chiến từ xa. Và bỗng ông thì thào, tôi dám chắc là mình không thể nghe lầm khi ông bỗng thì thào nói ra những lời buồn bã, rằng con ma làng của làng ông đã đánh không lại con ma làng của làng bên, vì ông đã nhìn thấy nước mắt của nó. Xư…ợt! Sau những lời buồn bã là ông ta hô lên thế. Và đấy là tôi ghi lại theo cách nghe của mình. Khi thấy mọi người rần rần đứng lên, người rút những cung tênh đang mắc trên vách nhà sàn, người lấy cây đao dựng ở góc vách, chúng tôi mới đoán biết là vừa rồi vị già làng đã hô “đánh”. Xư…ợt, như cách tôi nghe, là đánh. Bấy giờ thì nghe như đang có những dòng suối chuyển động trên mặt đất. Nhưng thật ra đó là tiếng chân ra trận của những con người mang sẵn trong người dòng máu quyết chiến. Cho đến lúc ấy tôi và nàng mới cảm thấy ân hận là tại sao mình lại nán lại nơi đó. Tiếp tục đi tất nhiên là không dám, mà quay lại cũng chẳng dám, vì chẳng biết chuyện đánh nhau giữa hai làng là xảy ra ở nơi nào. Hãy theo ta, bỡi các người là khách. Vị già làng nói với tôi và nàng, như ra lệnh. Đến lúc ấy thì ông ta vẫn ngồi ở ngôi nhà chung của làng để chỉ huy con ma làng và người làng mình đánh nhau với con ma làng và người làng kia. Thì chúng tôi cũng chỉ biết đến chừng ấy. Chỉ biết là người làng kia đã sang bên phía núi rừng thuộc làng này để săn con mang mà chiến tranh đã xảy ra. Máu đã chảy rồi đấy! Vị già làng dơ cặp giò gà khô lên, vừa ngắm nghía, vừa thì thào. Có nghĩa, qua cách biểu hiện thế nào đấy của những cái giò gà đã được hong khô bằng khói bếp, mà ông ta đã nhìn thấy máu đang đổ ở chiến trận. Bấy giờ trong ngôi nhà chung của làng chỉ còn lại ông ta, tôi với nàng, và một ông cụ nữa, có lẽ là người già nhất làng. Lúc đầu tôi cứ nghĩ ông cụ ấy giữ vai trò tham mưu cho già làng. Nhưng không phải. Người hãy nói với tổ tiên của những người làng này là ta sẽ không còn để mất đến nửa sơi lông con chim của núi rừng làng này. Khi nghe vị già làng nói với ông cụ thế, chúng tôi liền đoán được kẻ già nhất làng ấy là đang làm công việc trung gian giữa già làng với những người làng đã khuất. Ông cụ liền đứng dậy, vươn thẳng người lên, và bắt đầu nói ra những lời kỳ dị. Tới lúc đó chúng tôi mới hiểu ra những con người đang tồn tại ở nơi núi rừng ấy là đang sở hữu một thứ ngôn ngữ riêng có thể giao tiếp với quỉ ma và những kẻ đã khuất. Nhưng mặt ông cụ chợt tái ngắt, và bỗng sụp xuống, lạy giữa thinh không. Xin bớt giận…xin bớt giận. Ông cụ vừa run rẩy lạy giữa thinh không, vừa thì thào. Còn vị già làng lúc bấy giờ, mặt đầy sắt máu, tay run rẩy với cặp giò gà khô, miệng hô xượt xượt không ngớt. Máu lũ chúng đã chảy ngập suối… Chúng tôi biết là ông cụ già nhất làng ấy đang nói với những người đã khuất. Và những gì ông nói ra là hoàn toàn có tính cách duy lý. Nhưng khi nghe vị già làng, kẻ chỉ huy cuộc chiến, gào lên rằng máu kẻ thù đang chảy ngược về phía thượng nguồn bỡi xác lũ chúng đã làm nghẽn con suối, còn con ma làng ấy đang biến thành thứ gió chướng làm héo đi những chiếc lá non trên rừng, thì nàng chợt rỉ tai tôi, rằng nàng đang nghe thấy mùi máu ở trong ngôi nhà chung ấy. Anh cũng thế, cũng cảm thấy có mùi máu. Tôi cũng rỉ tai nàng. Sau đó thì chúng tôi nhắm chặt cả hai mắt, vì thử mở mắt nhìn thì thấy máu chảy lênh láng ở quanh mình. Và sau đó nữa thì cứ coi như chúng tôi chẳng còn biết gì nữa.

 

Các vị đã ra khỏi cuộc chiến rồi đấy.

 

Cho đến lúc nghe vẳng bên tai giọng nói ấy, cả tôi lẫn nàng đều mở mắt nhìn, thì thấy là chúng tôi đang đối mặt với một thiếu nữ trẻ đẹp. Như thể là có một thứ tri thức thần bí nào đó vừa thâm nhập vào tôi để tôi có thể thốt lên rằng nếu không có nữ thần cứu giúp thì chúng tôi đã tan xương nát thịt trong trận chiến ấy. Điều gì đã giúp anh nhận ra đấy là nữ thần? Về sau nàng cứ theo tra hỏi. Và tôi thì cũng chẳng thể nói ra vì sao lúc bấy giờ tôi lại biết đó là nữ thần.

 

Cuộc chuyển giao này là có tính cách định mệnh. Có nghĩa các vị sẽ còn gặp những u ám, tàn bạo trong suốt cuộc tìm kiếm chân lý.

 

Những lời ấy vừa dứt thì chúng tôi chẳng còn nhìn thấy vị nữ thần đâu cả.

Lại một chuyến đi nữa không thành. 

 

ba mươi tám.
thông điệp cuối cùng.

Tôi cũng không còn nhớ cuộc tìm kiếm con nước đầu nguồn con sông quê nàng diễn ra trong bao nhiêu năm tháng. Cứ sắp nhìn thấy nó thì lại gặp trắc trờ, khi là thuộc về con người, khi là thuộc về trời đất, nên phải quay về.

Cho đến một hôm tôi cho là chúng tôi đã nhìn thấy được chân lý của cuộc tìm kiếm. Nàng đã được hun đúc bỡi dòng sông ấy thì chẳng phải con nước đầu nguồn của con sông là thuộc về xương thịt nàng hay sao? Tôi nói với nàng ý nghĩ đó. Và hôn lên mùi thơm tinh khiết đang tỏa ra nơi vầng ngực tinh khiết của nàng. Anh sắp tan ra thành cát đây. Tôi vừa hôn nàng, vừa rên rỉ.   Em cũng thế, cũng sắp tan ra thành cát đây. Nàng cũng rên rỉ. Là rong rêu. Trong lúc đang hôn nhau thì bất chợt cả hai chúng tôi đều sờ thấy rong rêu đang mọc ra ở khắp thân thể của mình. Trời đất ơi, là rong rêu. Chỉ kêu lên được chừng ấy. Và lập tức cả tôi lẫn nàng đều phải ra dấu cho nhau biết là mình chẳng thể nói năng được nữa, chẳng thể bước nổi nữa, và cũng chẳng thể suy nghĩ được nữa. Bấy giờ thì coi như chỉ còn chờ đợi cái chết mà thôi. Nhưng liền sau đó thì thần cổ xưa đã đến. Hôm ấy thần xuất hiện theo kiểu người trần, có nghĩa, chẳng có vẻ gì là thần thánh cả.

 

Rong rêu là dấu hiệu đang trở lại buổi sơ khai của sự sống. Nếu các người chấm dứt cuộc tìm kiếm bấy lâu thì lập tức các người trở nên dưới mức con người.

 

Lời nói của thần cổ xưa tựa một thứ phép giải. Có nghĩa liền sau đó cả tôi lẫn nàng đều trở lại bình thường. Mùa thu năm ấy tôi và nàng lại ngược nhánh phụ lưu phía tây nam của sông để tiếp tục cuộc tìm kiếm có tính cách định mệnh ấy.

 

tháng hai, 2008
tháng mười hai, 2010