Thi Nại ký

Ông hoàng giáp Nguyễn Văn Hiển trong Đồ Bàn Thành Ký nói : Nhìn xa xa về hướng đông, thấy những làn sóng nhấp nhô bao la bát ngát cùng đổ vào khoảng bến Hổ và sông Nhạn, đó là cửa bể Hỗn Cảng tức cửa tấn Thi Nại. Đây là đứng ở thành Đồ Bàn mà nhìn. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí của triều Nguyễn nói : Đầm Biển Cạn ở phía đông huyện Tuy Phước, chu vi hơn 9500 trượng, nước đầm đổ vào cửa Thi Nại. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí thấy nước đầm đổ ra bể. Còn ông hoàng giáp Hiển  thấy nước bể đổ vào đầm. Khi cầm bút chép thì chuyện đã là của thời quá khứ. Nghìn năm trước là quá khứ. Mà vài giờ trước cũng là quá khứ.  Lịch sử là ký ức. Sự chuyển dịch của ngôn ngữ con người qua ký ức là quá lớn. Nên nghe nói Thi Nại trước là Thi Lị Bi Nại là do chuyển từ Cri Vinaya. Cri Vinaya hay Cri Vijaya? Nghe nói đấy là tên một vị vua Chiêm, người đã chuyển kinh đô Indrapura ( Đồng Dương ) về phía nam, từ đó mới có tên đất Vijaya, Bình Định,  đất đặt theo tên vua, kinh đô cũng theo tên vua, kinh đô Vijaya, Đồ Bàn? Và cái đầm nước mặn phía đông kinh đô cũng theo tên vua, đầm Cri Vijaya?  Tất cả cũng chỉ để gọi một vùng non sông đất nước mà thôi.

Gần ba mươi năm trước kẻ chép bài ký này lần đầu tiên  đã ra chơi Cồn Chim, một cù lao nhỏ nằm giữa đầm Thi Nại. Thuyền vừa cập bờ thì lập tức như ngửi thấy được mùi thái cổ của đất. Thì chẳng phải những thứ đó là thuộc thời đầu và thời trước của kỷ Camri hay sao? Mùi của tảo biển và mùi vỏ sò vỏ hến.  Nhưng trước khi con người đến ngụ ỏ đây để lập đìa nuôi tôm và vớt tảo biển xuất ra các nước thì cái cồn đất nhỏ này là giang sơn của các loài chim. Cồn Chim là cách nói gọn lại sự hiện hữu một quần cư  của chim trời. Những năm, những thế kỷ trôi qua, cái đầm nước dài gần vài mươi cây số trải dọc dài theo chân dãy Phương Mai là nơi thử sức tồn tại của nhiều giống loài trên mặt đất này. Con cá nước ngọt theo những ngả sông Tam Huyện, con sông chảy ngang qua thành Đồ Bàn, khi đến đầm nước mặn này thì vội quay ngược về nguồn, hoặc lập tức được làm thức ăn  cho những loài cá vốn có quốc tịch ở biển Đông. Triều lên, các loài tôm cá ở biển Đông theo con nước vào đầm, có thể quay lại biển Đông, hay ở lại sinh con đẻ cháu mà lần lữa làm sản phẩm cho những cuộc đánh bắt của những ngư dân ven đầm. Con triều xuống, một phần đầm lại bày đáy ra, thời điểm cho lũ mèo hoang. chồn hoang, và lũ chim trời, đến lấy thức ăn. Lần đầu tiên trong đời ra chơi Cồn Chim, nghe người nuôi tôm kể chuyện sông nước nơi đây, kẻ chép bài ký này không thể không nghĩ đến  cảnh tự nhiên thắm đỏ trong răng và móng vuốt.

Chưa có thư tịch nào nói đến các loài chim ở vùng đầm này. Nhưng cứ theo hiện

trạng và lời truyền thì không thể không nghĩ đến một cuộc chiến trong quần cư chim trời ở nơi đây. Tháp Thầy Bói. Đó là tên  cái gộp đá, một ngọn tháp bằng đá nguyên khối nhô lên mặt nước phía tây nam đầm, giang sơn của loài chim bói cá. Không giống những loài chim khác, phải chờ những điều kiện khách quan như đầm cạn, mới tìm được con mồi, loài chim này cứ từ trên không trung mà lao xuống đầm nước, nơi có con mồi nó nhìn thấy được bằng sự hiểu biết bẩm sinh. Bói ở đây không thể hiểu theo cách  của con ngừơi là đoán định tương lai. Ơ đây là đoán định hiện tại. Nhưng những ghềnh đá phía đông dãy Phương Mai, nơi biển ăn sâu vào chân núi tạo thành ghềnh, là giang sơn của một loài chim trời có vẻ cao sang hơn tất cả những loài chim khác. Nói đấy là Đảo Yến  thì cũng như nói đấy là chốn cư trú biệt lập  của loài chim biết khạc cái anh hoa loài giống mình ra mà làm tổ. Nhà ở của chim yến là làm bằng anh hoa của loài giống chúng, chất anh hoa được tiết ra trong nước đãi nơi miệng chúng. Loài thì trí tuệ, loài thì cao sang, thì làm sao có cuộc chung sống với đám cò đám vạc, với đám vịt nước, le le?  Chẳng biết cuộc chiến giữa các loài chim ở đây đã xảy ra như thế nào. Khi con người chủ ý đến thì giữa chúng đã có cuộc phân hóa. Thì chẳng phải có một xã hội chim yến quí tộc với một xã hội chim bói cá thượng lưu đang tồn tại bên cạnh một xã hội cò vạc  và le le vịt nước rất đông đảo đấy sao ?

Sự tạo núi sông của tự nhiên là chẳng chút ẩn ý. Đến lúc ấy thì có một cái đầm nước mặn nằm dọc theo núi, vậy thôi. Đầm Thi Nại tựa cái phổi nước nằm dựa biển Đông phập phào thở theo con triều lên xuống. Đêm, nằm ở chồ rớ trên đầm Thi Nại, chờ đến giờ kéo rớ để luộc con ghẹ còn tươi roi rói, vừa ăn vừa nhìn nước đầm loang loáng ánh sao, thì quả là sông nước hữu tình. Vào những giờ thuyền cá về, khi trông thấy những bàn tay dơ lên ở thuyền cá ra hiệu  là được mẻ lớn, thì đám đàn bà con nít ở những xóm cá hai bên bờ cửa Thi Nại nhao lên như  con sóng biển xô vào đầm, thì cũng quả là sông nước hữu tình. Nhưng cửa biển ấy, đầm nước ấy, cũng vô tình làm cho các vua Chiêm điêu đứng.

Từ khi nước Chiêm dời kinh đô đến Đồ Bàn, đầm Thi Nại được nhiều lần đứng vào thư tịch. Một dãi dài từ châu Ai châu Hoan vào châu Ô châu Lý đến  Cựu Châu ( Quảng Nam ) và Đại Châu ( Bình Định ) đều lắm sông nhiều núi, việc di chuyển thời ấy chủ yếu là bằng đường biển. Các vua Chiêm đi đánh Đại Việt hay các vua Đại Việt đi đánh Chiêm hầu hết là đi đường biển. Có nhiều cửa biển để lên  kinh đô Thăng Long của Đại Việt. Nhưng muốn lên kinh đô Đồ Bàn của Chiêm với con đường tiện lợi nhất là phải vào cửa Thi Nại. Đầm Thi Nại như phải chấp nhận một số phận bi thảm từ khi có kinh đô Đồ Bàn. Binh lửa đã nhiều phen xảy ra ở đây. Có phải vì thế mà ông hoàng giáp Hiển gọi cửa Thi Nại là Hỗn Cảng hay không? Cuộc binh lửa năm 1044  là cuộc binh lửa đầu tiên xảy đến với đầm Thi Nại được chép vào thư tịch. Mùa xuân năm 1044 vua Lý Thái Tông của Đại Việt thân chinh đi đánh  Chiêm, đánh nhau với quân Chiêm ở sông Ngũ Bồ , chém được vua Chiêm Rudravarman III (Sạ Đẩu) , sang thu thì đem quân vào thành Đồ Bàn bắt các phi tần của vua Chiêm múa khúc Tây Thiên để xem. Trong các thư tịch cổ, khi nói về trận đánh này chẳng thấy nói gì về cửa Thi Nại. Nhưng Lý Thái Tông đi đánh Chiêm bằng đường thủy mà không qua cửa Thi Nại thì lên Đồ Bàn bằng đường nào? Hai mươi lăm năm sau đấy, năm 1069, vua Lý Thánh Tông lấy cớ nước Chiêm bỏ triều cống, đem quân sang đánh. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nói : Kỷ Dậu, 1069, mùa xuân, tháng hai, vua thân đi đánh Chiêm Thành bắt được vua nước ấy là Chế Củ ( Rudravarman III ) Sách Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời của Đào Duy Anh nói : Ngày kỷ tỵ, hăm bảy tháng ba, thì qua Đại Trường Sa….ngày bính  ngọ, mồng ba tháng tư,  thì đến cửa Thi Lị Bi Nại. Ba thế kỷ sau đấy, vua Trần Duệ Tông vừa lên ngôi ( 1373 )  đã chuẩn bị đánh Chiêm. Tuyển lính, đào kênh với đắp đường từ Thanh Hoá vào Nghệ Tĩnh. Tháng năm 1376 Chiêm Thành cướp phá Hoá Châu ( Bấy giờ hai châu Ô,Lý của Chiêm đã thành Hoá Châu, Thuận Châu của Đại Việt. Ô, Lý là sính lễ cưới Huyền Trân của vua Chiêm Sinhavarman III, Chế Mân ) Tháng mười hai thì vua thân đi đánh Chiêm. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nói : Đinh Tỵ, 1377, mùa xuân, tháng giêng, ngày hăm ba, đại quân tiến đến cửa Thi Nại của Chiêm Thành, lên đến Thạch Kiều, đóng lại ở động Ỷ Mang…. ngày hăm bốn vua mặc áo đen, cưỡi ngựa nghê thông, … truyền lệnh tiến quân. Và vua đã chết nơi phục binh của vua Chiêm, Chế Bồng Nga. Nhưng số phận lịch sử của kinh đô Đồ Bàn đã được thay đổi vào hậu bán thế kỷ mười lăm. Năm 1470, vua Chiêm, Trà Toàn, đem mười vạn quân ra đánh Hóa Châu. Năm sau, 1471, vua Lê Thánh Tông của Đại Việt đem hơn hai mươi vạn quân vào đánh Chiêm, bắt sống Trà Toàn, sáp nhập phần đất phía bắc nước Chiêm (từ đèo Cù Mông trở ra) vào Đại Việt. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nói : Tân Mão, 1471, tháng hai, ngày hăm bảy, vua tự mình đem đại quân đánh phá thành Thi Nại, chém được hơn một trăm thủ cấp, …..ngày hăm tám vua tiến vây thành Chà Bàn.  Thành Chà Bàn tức thành Đồ Bàn. Còn thành Thi Nại là đồn tiền tiêu của kinh đô Đồ Bàn, nằm ở phía tây đầm Thi Nại chừng vài ba cây số. Đây là trận đánh cuối cùng giữa Chiêm Thành và Đại Việt ở đầm Thi Nại. Bốn trận đánh ở đầm Thi Nại kể trên là xảy ra trong ba triều Lý, Trần, Lê của Đại Việt. Dường  các bậc quân vương chỉ thích đọc anh hùng ca mà không thích đọc bi ca. Cho nên khi chép về cuộc thân chinh của vua sử văn phải đầy hào khí. …Ngày hôm ấy, ngự giá khởi hành, trời mưa nhỏ, gió bấc. Tư thiên giám Tạ Khắc Hài tâu rằng : “Mưa là mưa nhuần quân, gió từ phương bắc là gió hòa” Cho nên, khi thuyền vua đi, có câu thơ rằng … Đấy là quang cảnh xuất quân đi đánh Chiêm của vua Lê Thánh Tông. Bi ca là chuyện của cái đầm nước khi thì gọi là Thi Nại, khi gọi là Thi Lị Bi Nại, hay đầm Bể Cạn, hay Hải Hạc Đàm. Bỡi mỗi lần binh lửa xảy nơi đây thì ngoài xác chim, xác cá tôm, trong đầm còn có cả xác người.

 

 Tiết lập đông, Bính Tuất, 2006