“Qua nói với mấy em là nói theo ý riêng của qua. Cho nên có nghe lọt tai hay không là việc của mấy em”
Khi trò chuyện với những người đến chuyện trò với mình, bao giờ ông Trần cũng giữ sự khiêm tốn đúng mực của kẻ theo Lý học.
Lý học nói ở đây chẳng phải là môn phái triết học thuộc thời Tống (960-1279) của nướcTàu cổ.
Khổng học của nước Tàu cổ tồn tại đến thời Tống thì đổi hướng : Không còn dừng lại ở việc bàn luận về mối quan hệ giữa con người với con người như đã làm trong hơn nghìn năm qua, mà vươn đến các lĩnh vực siêu hình : Vũ trụ từ đâu mà có? Con người do đâu mà có? …
Trương Tái (1020-1077) đề xướng Khí học
Chu Đôn Di (1017-1073) đề xướng Lý học, được các học trò là Trình Hạo (1032-1085) , Trình Di (1033-1107) tiếp tục phát triển. Nhưng phải đến Chu Hi (1130-1200), học trò bốn đời của Trình Di, thì Lý học mới đạt đến đỉnh cao. Chu cho rằng Lý là cái Đạo, là gốc của mọi sự vật. Người ta bảo triết học của Trình-Chu là Khổng học mới, giống như triết học của Thomas Aquinas bên Châu Âu là Plato mới.
Thời Tống của nước Tàu cổ là ngang với thời Lý ở Việt Nam.
Dẫn ra những điều trên là để cho thấy Lý học của đời Tống của nước Tàu cổ là một môn phái triết học hoàn toàn khác với Lý học của dòng họTrần ở làng Bàu Đá, một ngôi làng quê nghèo nằm cách thành Đồ Bàn cũ chừng hơn mươi cây số về phía tây nam.
“Dòng họ nhà qua mấy chục đời nay coi việc chưng cất rượu là cách hành đạo. Ngồi nghe cách cơm rượu sôi ở trong vò mà sửa lại ngọn lửa bếp sao cho hợp với việc chuyển vận trong ống hơi và trong bầu hơi của đám khí nước. Mà muốn sửa ngọn lửa bếp thì đâu phải một sớm một chiều là làm được”
Ông Trần nói về cái khó trong việc đun cơm rượu. Cho đến lúc này thì ông đã ngót nghét chín mươi. Nên hầu hết những người hằng ngày đến trò chuyện cùng ông đều thuộc hàng đàn em hoặc hàng con cháu.
Có thể nói việc hành đạo trong Lý học của dòng họ Trần ở làng Bàu Đá là ngồi chưng cất rượu .
“Qua chỉ tỉ dụ thôi. Ngọn lửa bếp đột nhiên mà to lên thì cơm rượu trong vò nóng lên, đám khí nước đột nhiên thay đổi mực chuyển vận mà sinh ra ứ trệ, trong phép chưng cất gọi là khê, tức sinh mùi vị không tốt so với mùi vị trước đấy. Còn như ngọn lửa bếp đột nhiên mà nhỏ đi, thì đám khí nước sinh ra sự thiếu hụt, trong phép chưng cất gọi là nhạt, tức mùi vị cũng không bằng mùi vị đương có…
Ông Trần nói về những hậu quả khó lường trong việc thay đổi ngọn lửa bếp trong chưng cất rượu.
Có mấy vị tiến sĩ ngành dân tộc học và khảo cổ học, người Nam Bộ, vừa đỗ đạt xong thì rủ nhau làm chuyến điền dã đến làng Bàu Đá, cốt là để xả hơi sau những năm tháng kinh sử vất vả, nhưng đồng thời cũng để cho biết miền đất đã sản sinh ra thứ rượu gạo đang được bày bán nhiều nơi trên đất nước Việt Nam, và hình như có nhiều nhà kinh doanh muốn xuất đi các nước trên thế giới. Lúc đến nơi bọn họ mới biết là đã gặp được một kẻ theo Lý học theo một đường hướng thật khác thường.
“Uống rượu đây là qua thay mặt cho những người dân quê ở đây để uống với mấy em. Còn như nói về rượu thì qua có thể nói cho mấy em nghe mấy ngày mấy đêm cũng được”
Trong khi hành đạo ông Trần đã ngộ được cái phóng dật Nam Bộ mà ông không hay. Nên giờ nói ra điều mình nghĩ, thì lập tức cái đạo cốt của ông khiến cho mấy vị tiến sĩ trẻ dân Nam Bộ như bị ông hớp mất hồn. Có nghĩa, sau khi uống xong chén rượu khách thì các vị ấy lặng lẽ xếp bằng trên nền nhà, ngay cạnh lò chưng cất rượu, nơi ông Trần đang làm công việc chưng cất, để lắng nghe ông giảng về rượu.
Con đường đi của rượu đối với dòng họ nhà qua cũng là con đường hành đạo. Con đường của rượu khởi đầu bằng ngọn lửa tự sinh, trong phép chưng cất gọi là sự lên men, và kết thúc cũng bằng lửa tự sinh, hay còn gọi là độ nồng của rượu. Chính ngọn lửa này làm cho người ta ngất ngây, gọi là say, trong khi uống rượu.
Mà lửa tự sinh hay lửa đun lò bếp đều là của trời đất. Nên phải thấu cái lý của trời đất mới điều động được lửa ở trong lò bếp. Nhưng thấu cái lý của trời đất là sao, thì chẳng thể diễn bằng lời. Cho nên trong việc chưng cất rượu không phải nghe, nhìn bằng tai bằng mắt, mà bằng ý nghĩ. Ý nghĩ mà trong sáng thì đường đi của rượu tất thông suốt. Ý nghĩ mà vẩn đục thì đường đi của rượu sẽ ứ trệ, hoặc thiếu hụt, những giọt nước thành phẩm, tức là rượu, tất sẽ khê, nhạt.
Cứ thế, ngày này sang ngày khác, qua cứ ngồi vào nơi chưng cất, lòng chỉ nghĩ đến con đường đi của rượu.
Cho đến hôm qua nếm thử những giọt nước thành phẩm nghe thơm mùi thơm thánh thiện, thì biết là mình đã ngộ được cái lý của trời đất”
Có một vị trong mấy vị tiến sĩ trẻ ấy muốn làm một công trình nghiên cứu về rượu Bàu Đá trong nền Lý học mà dòng họ ông Trần đeo đuổi trong bao nhiêu thế hệ . Anh ta đã trở lại làng Bàu Đá để lấy tư liệu. Nhưng ông Trần thì vừa mới chết trước đó mấy hôm.
Người viết chuyện này có cái duyên may là đã được trò chuyện cùng ông Trần trước khi ông chết cũng chỉ có mấy hôm.
“Mà đây cũng chỉ là ý riêng của qua, khi bảo rằng con đường của rượu là cuộc chuyển hóa tế vi của sự vật”
“Thế khi nhìn thấy được con đường đi của rượu, tức thấy được từ cái cứng hóa làm cái mềm, thì cũng sẽ nhìn thấy được con đường của nhân sinh”
“Đấy lại là ý của riêng em. Còn qua thì chỉ thấy thế này. Lửa là thứ cốt tử trong mọi sự vật. Nó mà xê xích, gia giảm một chút, thì trong chưng cất rượu sẽ sinh khê nhạt, còn trong cuộc nhân sinh rất có thể là làm cho huy hoàng lộng lẫy thành ra điêu tàn”
2007-2014