viết [1]

 

Tôi cứ thủng thỉnh bước trên những con đường ngang qua mặt đất, chẳng có trù tính gì về chuyện viết lách cả, cứ đi, rồi bỗng một hôm tôi nhìn thấy một con chim đến nói với tôi là tôi biết hót, và một hôm tôi bỗng thấy con đường trước nhà tôi cứ gồng mình lên, hét, hãy cút hết đi, bỡi có quá nhiều những thằng mặt trắng những thằng mặt đen ăn nói bậy bạ tranh lấn nhau trên đường, rồi tôi cứ lơ ngơ để cho ngọn bút của tôi quyến rủ lung lạc tôi, rồi tôi bỗng thấy mình đứng giữa cảnh trí  chỉ vài ba phút gì đó sau tiếng nổ lớn của cuộc tuần hoàn [sau bigbang] chưa có phân biệt trời đất, chưa có phân biệt sống chết, chưa có phân biệt trước sau, và tôi bắt đầu nói ra những nỗi niềm của mình với những người đã chết những người chưa chết và những người đang chết, tôi đã làm được thứ văn chương khi những đường biên đã được dỡ bỏ.

 

Đấy là chuyện riêng của tôi với nàng, rừng đêm, tôi cõng nàng lội qua con suối tháng chạp, nguyên sơ như vẫn còn nhìn thấy được trong cách thức của gía lạnh [hỗn mang trượt qua những ngợi mong manh của lá, và cứ vang lên như những khúc ca sầu muộn] em sợ, dường lời nàng đang nghẽn lại trong sự va đập của những thiên niên kỷ bất hạnh, tôi vội khoanh sương trời lại cho nàng ngủ, nửa khuya có người đến gõ vào bàn chân tôi, hóa ra là lũ ốc suối, nghìn năm, những cuộc hóa thân… lũ ốc nói, rồi bỏ đi, giờ  em cũng phải đi, nàng bỗng vùng dậy, hôn lên bàn tay tôi, rồi bước về phía có những âm vang giống như tiếng va chạm của đá, tôi thiếp đi, và lúc thức dậy thấy có người con gái đang ngồi cạnh mình, mặt trời đang lên [rừng cây như toát lên vẻ;sang trọng bất ngờ] bóng tôi và bóng nàng bắt đầu trôi trên con suối, em đã trở lại và phải chờ suốt mấy trăm năm ông mới thức giấc, nàng nói, tôi thấy nàng lộng lẫy y như trong giấc mơ của mình.

 

Đếm thử cây trên rừng, rồi ngã mũ chào sự trong sáng của tạo tác, đó là khách, buổi sáng, đến thăm núi, chim hót, và gió thổi trên cao, sau khi ngã mũ chào công trình sáng tạo vĩ đại của trời đất, cứ  muốn hét to lên một tiếng cho bỏ ghét thói háo danh của thế gian, trưa,  xuống núi, bóng núi chồng lên bóng người, cái một bất chợt, cứ thấy cảm hứng trong lòng, bèn gào lên những lời lặng lẽ, tựa kẻ đã chết bỗng thức dậy giữa trần gian, lồng lộng, cao sang, có vẻ chẳng ngại sự rộng lớn của đất trời, cứ bước.

 

Sự lặng lẽ của ngôn từ kéo dài hằng trăm triệu triệu năm nơi những ngọn núi những dòng sông, nơi những hữu thể có thể có tên là trầm tích là phù sa, hay nửa cuộc phù trầm lận đận. Lắng đọng và tịch liêu. Sự lặng lẽ không phải là lặng lẽ. Bỡi đôi khi là sự òa vỡ của sự thái quá. Một tiếng suối reo. Một tiếng chim kêu. Hay một cơn gió thoảng. Cũng có thể là tiếng sấm mùa xuân. Tất cả những thứ ấy chẳng phải là đêm trước của ngôn từ hay sao?

Từ đêm trước của ngôn từ đến ngôn từ là một khoảng cách mơ hồ lãng đãng gió trăng phủ kín trần ai. 

Một cuộc ủy nhiệm vĩ đại chưa hề thấy trong lịch sử của sống. Con người bất chợt hiện diện nơi mặt đất như một cảm hứng bất chợt của tạo tác. Hãy nhận lấy công việc ấy! Vào một ngày nào đó trong lịch sử của sống, chẳng ai hay ai biết, trời đất trăng sao bỗng ủy nhiệm cho con người việc sử dụng ngôn từ. 

Viết chẳng qua là công việc đến sau ngôn từ.

 

Không hề hay biết, đã từ lâu, rất lâu, chỉ biết là rất lâu, bỗng xuất hiện trong chúng ta, một cách lặng lẽ và đầy bí ẩn, những năng lực sánh được với cuộc vận hành nhật nguyệt [Bỗng cuộc phù vân vây kín ta…và nắng, và gió, và tai họa, những bạn đường bất đắc dĩ…] Bỗng nhìn thấy được những nỗi niềm cuối đất cùng trời. Như ân huệ của tồn tại bỗng rơi vào chúng ta, thứ vật thể nhỏ nhoi xuất hiện sau bao nhiêu vật thể trong trời đất. Đã từ rất lâu, không một ai hay biết là chúng ta đã nhận được ân huệ của tồn tại. Cho đến một hôm, dưới bầu trời lộng gió, nơi khu rừng nguyên thủy nào đó, có thể là như thế, ai đó thốt kêu khi nhìn thấy những mầm cây nhú lên mặt đất. Hay mùa thu lá rụng, ai đó ngồi nơi hang động nhìn thấy lá rời khỏi cành cây, và cảm thấy buồn. Sự xuất hiện của thứ năng lực ấy là sắp đặt hay chỉ là ngẫu nhiên của tồn tại, không một ai trong chúng ta có thể nói được. Chỉ biết là buổi chiều hôm, ngày sắp tàn, đêm tối sắp xảy ra, có ai đó bỗng nảy ra ý kiến cái gì đã tạo nên những sự kiện như thế ?Và sau đó là những khám phá của thi ca, của khoa học. Thứ ân huệ của tồn tại như những ngọn sóng lặng lẽ đưa đẩy chúng ta về phía bầu trời thi ca.  Nhưng cũng đưa đẩy chúng ta về phía của những sai lầm tàn nhẫn [Ta đi chín mươi chín kiếp lãng tử giang hồ quay về vẫn thấy nhân quần cúi xuống  cuộc cần lao…] Bi kịch của thứ ân huệ ấy là khiến cho chúng ta có khi mang cốt cách của người, có khi mang cốt cách của quỉ. Có kẻ viết những cuốn sách tràng giang chữ nghĩa, tràng giang hình ảnh,  đề nói về nó khiến chúng ta lại cảm thấy bối rối. Hay là cứ nói thứ năng lực bí ẩn ấy là những âm vang lặng lẽ lãng đãng va đập vào những nghĩ ngợi trần thế…

 

Bỗng người gánh non sông đi giữa cỏ khô, đã im hết tiếng dế, im hết những bài ca dạo đầu của đất [trùng điệp những bước chân lưu lạc, những gặp gỡ, ly tan, trùng điệp những nguyên sinh, lung linh nước, lung linh bầu trời, hơi thở trong đá, trong chuyển động hư vô…] đã im hết những trù tính, những hoài bão, những mơ ước, có ai còn nghe thấy lời vô ngôn trong cỏ…

 

Viết, ngoài những hệ lụy thường có của nó, còn là một nỗi niềm 

Nếu quan niệm không gian và thời gian như những phút ban đầu của tạo tác thì thật thoái mái biết bao trong việc kể bất cứ một câu chuyện nào như ta muốn. 

Người kể chuyện bao giờ cũng muốn câu chuyện kể của mình có một hiệu ứng cảm xúc thật mạnh mẽ đối với  người đọc. Và để có được điều đó thì hình như là phải có một cách nhìn thế giới theo thứ cách thức hoàn toàn là của riêng của mình, và cách diễn đạt nó. Và hình như tốt nhất vẫn là làm sao bộc lộ cho bằng được cái cách nhìn hơi ngược đời một chút, và thứ chất giọng không cần phải nhờ đến quá nhiều những từ ngữ.

Và câu chuyện kể thì lúc nào cũng giành lấy việc dẫn dắt người kể chuyện. Nhưng khi nó làm tiêu tan thứ lô gíc thông thường về thời gian và không gian, thì bản thân nó không còn là một câu chuyện kể có đầu có đuôi như thường lệ.

Và thật nghịch lý làm sao khi đặt thứ không gian và thời gian như thế vào một một bối cảnh lịch sử cụ thể nào đó. Nhưng thật oái oăm khi câu chuyện kể được đặt vào một bối cảnh lịch sử lại thường gây hiệu ứng mạnh mẽ ở người đọc.

Hay là chúng ta phải có nhiệm vụ gầy dựng cho bằng được một thứ triết học của thi ca. Một thứ triết học ở ngoài cả không gian và thời gian

 

Những người còn sống sót sau cuộc chiến tụ tập ở một nơi kín đáo nào đó, hoạch định những cách thức đánh trả, bỗng trổi dậy những hờn căm, tức giận, phải trả thù, những xao động màu lá chết tuôn ra từ dòng chảy khởi lên tự thuở kết tập bầy đàn, bỗng nhìn thấy con đường quen thuộc trước ngõ trở nên đáng yêu, mùi rơm rạ, mùi phân bò, mùi gió, và dấu chân người tình cũ, vẫn lãng đãng giữa cỏ nội hình dáng em, nỗi nhớ như bắt đầu tự thuở con người chưa có ngôn ngữ riêng tư, những xáo động màu ngọc bích kim cương lại khởi lên từ vô thức bầy đàn, bỗng, một ngày, cứ thấy lại trong cõi tận cùng năm tháng một cái gì đấy như tiếng gọi miên trường hay như cuộc hành trình tìm kiếm miền vĩnh cửu

 

Cho đến lúc  cuộc đời tặng anh quá nhiều những phiền muộn anh mới thấy được ý nghĩa [như một bản thể luận] việc mẹ anh đêm mò cài chiếc cúc áo cho anh [chiếc cúc áo trước lúc đi ngủ anh đã quên cài] kể từ khi anh bước ra khỏi ngôi nhà-lòng mẹ thì mẹ anh, từng ngày, từng giờ, vội vã, tất bật, lo toan gầy dựng cho anh một chốn cư trú mới, tiếng võng, câu hát buổi trưa hè, những âm vang, niềm khao khát, hình bóng tiền nhân thấp thoáng giữa buổi ấu thơ, mẹ là chốn cư trú vĩnh cửu của anh, cho đến lúc cuộc đời tặng anh quá nhiều những trắc trở anh mới thấy tiếng chim cu trên bờ tre trước nhà anh như bài học đầu đời, lũ chim cu, phúng dụ tuyệt vời về sự tồn tại bầy đàn, có kẻ tàn nhẫn chạm vào tình cảm bầy đàn của chúng [con chim cắt hung bạo, trận mưa bão bất thường, hay mưu mô rập bẩy của con người] tiếng chim cu trên bờ tre trước ngõ nhà anh có thể là những chia xẻ nỗi niềm, những tín hiệu về nỗi đau chia cắt, nhưng cũng có thể đó là tiếng nói của tình yêu, gù tình là cách nói của con người đã dành cho lũ chim cu suốt cuộc tiến hóa của các loài, tiếng gù, một trạng thái tâm hồn thanh khiết [dẫu cho sự hiểu lệch của con người, với con người, gù là có vẻ lừa nhau] cho đến lúc nhìn thấy thế giới có quá nhiều trắc trở [các thứ đại tự sự có vẻ như không còn cái nào là có thể làm nền tảng cho cuộc sống đương đại, con người lại hiếu chiến hơn, cuộc chiến tranh lạnh, nóng, về kinh tế, chính trị, khoa học, thực sự đang diễn ra khắp nơi, sáng mở mắt ra thì như con người lại gầm gừ dọa nhau…] anh mới chợt nhận ra rằng tự buổi ấu thơ lũ chim cu đã tặng anh một bài học về sự tồn tại, gù tình, người ở lại vẫn cứ thương nhớ người ra đi.