TRONG CĂN PHÒNG NHỎ
Tôi nhớ là tôi đã hỏi cha tôi ông làm gì suốt ngày
Như vậy nơi phòng nhỏ đầy bụi ấy ở Gliwice,
trong khối nhà thấp theo kiểu Xô Viết
điều đó nói lên rằng mọi khu phố phải giống như những trại lính
và những căn phòng chật chội sẽ làm thất bại mọi âm mưu
nơi một chiếc đồng hồ treo tường cũ kỹ gõ nhịp, không mệt mỏi,
cha tôi đã sống lại từng ngày cái tháng 9 rã rời năm 39
[với] tiếng bom reo
và trong khu vườn của Dòng Tên ở Lvov, lấp loáng
màu xanh rực của những cây phong và tần bì và những con chim nhỏ,
thuyền gỗ trên sông Dniester, hương thơm của liệu và cát ẩm,
vào những hôm nóng bức đó khi bạn gặp một cô gái học luật,
chuyến đi bằng xe tải về miền tây, biên giới cuối cùng,
hai trăm bông hồng từ những sinh viên
biết ơn sự giúp đỡ của bạn trong năm 68,
và những tình tiết khác tôi sẽ không bao giờ biết,
nụ hôn của cô gái người sẽ không [bao giờ] trở thành mẹ tôi,
nỗi sợ hãi và những quả lý gai ngọt ngào tuổi ấu thơ, những
hình ảnh được vẽ nên
từ thứ vực thẳm êm đềm trước khi tôi thành người lớn.
trí nhớ của bạn chuyển động trong căn nhà yên ắng- sự lặng lẽ,
Một cách có hệ thống, bạn cố khôi phục lại tức khắc
thế kỷ đau thương của bạn
IN A LITTLE APARTMENT
I ask my father, “What do you do all day?” “I remember.”
So in that dusty little apartment in Gliwice,
in a low block in the Soviet style
that says all towns should look like barracks,
and cramped rooms will defeat conspiracies,
where an old-fashioned wall clock marches on, unwearied,
he relives daily the mild September of ’39, its whistling bombs,
and the Jesuit garden in Lvov, gleaming
with the green glow of maples and ash trees and small birds,
kayaks on the Dniester, the scent of wicker and wet sand,
that hot day when you met a girl who studied law,
the trip by freight car to the west, the final border,
two hundred roses from the students
grateful for your help in ’68,
and other episodes I’ll never know,
the kiss of a girl who didn’t become my mother,
the fear and sweet gooseberries of childhood, images drawn
from that calm abyss before I was.
Your memory works in the quiet apartment—in silence,
systematically, you struggle to retrieve for an instant
your painful century.
(Translated, from the Polish, by Clare Cavanagh.)
The Newyorker , April 2, 2007, issue.
***
TIERRA DEL FUEGO
Bạn người nhìn thấy những ngôi nhà của chúng ta về đêm
và những bức tường mong manh của lương tâm chúng ta,
bạn người nghe thấy những cuộc chuyện trò của chúng ta,
giọng nói đều đều tựa những chiếc máy khâu
–cứu tôi với, [hãy] kéo tôi ra khỏi giấc ngủ
từ chứng dễ quên
Tại sao lại là tuổi thơ__ồ, thứ kho tàng bọc bằng giấy thiếc
ồ, xào xạc tiếng dây dọi [đang] dò độ sâu, thân thương và tiên tri—
nguồn gốc duy nhất của chúng ta, niềm khao khát duy nhất của chúng ta?
Tại sao lại là tuổi trưởng thành, lứa tuổi trải qua sự chín chắn
đường đến chốn cao vô tận
Có phải Sahara màu vàng?
Cuối cùng, bạn có biết có những ngày
ngay cả khi cơn khát cũng cạn kiệt
và lời cầu nguyện đông cứng trên môi
Đôi khi mặt trời sẫm lại
và cuộc đời thu nhỏ đến mức
bạn có thể dấu kín
trong chiếc găng tay màu xanh của gã giang hồ
kẻ dự đoán tướng lai
cho bảy thế hệ trước
và rồi thì một vài khu phố nhỏ khác
nằm ở phía nam một gả bịp bợm
kẻ quyết tiêu diệt bạn,
tôi, và chính gã
Bạn người nhìn thấy màu trắng trong mắt của chúng ta
bạn người lẩn trốn như một con bullfinch
trong những bụi cây nhỏ có trái chín đỏ
như một con chim ưng
trong những đám mây như những chiếc vớ ấm áp
—hãy mở chiếc họp đầy những bài hát
hãy mở cho máu đập những nhịp đập trong động mạch
của các con vật và các tảng đá
Không tên tuổi, không nhìn thấy, nỗi im lặng
hãy cứu tôi ra khỏi cơn mê
mang tôi tới Tierra del Fuego,
mang tôi tới nơi những dòng sông
dựng ngược, những dòng sông trên trời
chảy lên và chảy xuống
TIERRA DEL FUEGO
Translated by Clare Cavanagh.
You who see our homes at night
and the frail walls of our conscience,
you who hear our conversations
droning on like sewing machines
—save me, tear me from sleep,
from amnesia.
.
Why is childhood—oh, tinfoil treasures,
oh, the rustling of lead, lovely and foreboding—
our only origin, our only longing?
Why is manhood, which takes the place of ripeness,
an endless highway,
Sahara yellow?
.
After all, you know there are days
when even thirst runs dry
and prayer’s lips harden.
.
Sometimes the sun’s coin dims
and life shrinks so small
that you could tuck it
in the blue gloves of the Gypsy
who predicts the future
for seven generations back
.
and then in some other little town
in the south a charlatan
decides to destroy you,
me, and himself.
.
You who see the whites of our eyes,
you who hide like a bullfinch
in the rowans,
like a falcon
in the clouds’ warm stockings
.
—open the boxes full of song,
open the blood that pulses in aortas
of animals and stones,
light lanterns in black gardens.
.
Nameless, unseen, silent,
save me from anesthesia,
take me to Tierra del Fuego,
take me where the rivers
flow straight up, horizontal rivers
flowing up and down.
Adam Zagajewski, “Tierra del Fuego,” translated by Clare Cavanagh, from Without End: New and Selected Poems. Copyright © 2002 by Adam Zagajewski. Used by permission of Farrar, Straus & Giroux, LLC, http://us.macmillan.com/fsg. All rights reserved.
Source: Mysticism for Beginners (Farrar Straus and Giroux, 1997)
.
_______
Tierra del Fuego
Là một quần đảo ở ngoài khơi mũi cực nam của đất liền Nam Mỹ được khám phá trong chuyến thám hiểm của Ferdinand Magellan năm 1520; Tierra del Fuego với cái tên khác, Quần đảo lửa, là do từ việc nhìn thấy nhiều đống lửa mà người bản địa đã dựng lên ở đó.
.