Với sự bùng nổ chiến tranh 1939, Pound đã ở Ý, nơi ông đã lưu lại, mặc dù có yêu cầu ông hồi hương sau trận Trân Châu cảng. Trong suốt thời gian này nguồn thu nhập chính của ông là một loạt chương trình phát thanh ông thực hiện trên đài phát thanh Rome. Ông sử dụng chương trình này để bày tỏ đầy đủ các thứ ý kiến của mình về văn hóa, chính trị và kinh tế, bao gòm sự phản đối của ông đối với sự tham gia của Mỹ vào cuộc chiến tranh ở châu Âu và chủ nghĩa bài Do Thái của ông. Năm 1943 ông bị truy tố về tôi phản bội [tổ quốc] trong khi ông vắng mặt , và ông đã viết thư cho thẩm phán cáo trạng trong thư ông tuyên bố quyền tự do ngôn luận để bào chữa.
Pound đã bị bắt ở Rapallo [bắc Ý] bỡi những đảng viên Ý vào ngày 3 tháng 5. 1945, bị giam giữ tại Genoa và sau cùng được chuyển đến Trung Tâm Huấn Luyện Kỷ Luật Hoa Kỳ ( DTC) nằm ở phía bắc Pisan [Ý] vào ngày 22 tháng 5.1945. Tại đây, ban đầu ông bị giam giữ trong một chiếc lồng được gia cố đặc biệt, ngủ trên mặt đất ngoài trời. Sau ba tuần, ông bị suy sụp đưa đến kết quả việc ông được tặng một giường cũi và cái lều che trong khu y tế. Ở đây ông được sử dụng máy đánh chữ. Về chuyện đọc, ông đã có một cuốn Kinh Thánh về các đề mục qui tắc cùng với ba cuốn sách ông được mang theo như những văn bản ‘tôn giáo’ riêng của ông: một văn bản tiếng Trung của Khổng Tử, bản dịch cùng tên của James Legge [một học giả Scotland] và một cuốn từ điển tiếng Trung. Sau đó ông đã tìm thấy một bản sao sách thơ văn bỏ túi được biên tập bỡi [tác giả sách bỏ túi người Nga] Morris Edmund Speare ở trong nhà vệ sinh. Một thứ duy nhất nữa ông mang theo bên mình là hạt cây dầu gió.
Xuyên suốt trình tự Pisan Canto, Pound luôn đồng hóa trại giam với bức bích họa Tháng Ba của [họa sĩ thời Phục Hưng] Morris Edmund Speare mô tả những người đàn ông đang làm việc tại một lều nho.
Với sự quyết đoán chính trị của ông đang sụp đổ quanh ông và việc ông không thể vào được thư viện, Pound quay vào bên trong [chính ông] để tìm tư liệu và phần lớn trình tự Pisan Canto là liên quan đến ký ức, đặc biệt là những năm ông ở Luân Đôn [ bắt đầu từ năm1908] và ở Paris [bắt đầu từ năm 1920] và với các nhà văn và các nghệ sĩ ông biết ở những thành phố này. Cũng có những quan tâm sâu sắc về sinh thái của thơ.
Việc trao giải Bollingen Prize [ giải thưởng cho thơ ca của các tác giả Mỹ ban đầu được quốc hội Mỹ trao tặng ] cho Piasan Canto đã gây ra cuộc tranh cãi rất lớn, với nhiều người chống lại việc tôn vinh một người mà họ cho là một kẻ điên/hoặc kẻ phản bội.
Tuy nhiên, Pisan Canto nói chung là phần được ngưỡng mộ nhất và được đọc nhiều nhất trong trường ca Canto của Pound [gòm 116 canto/thi khúc, Pisan Canto được đánh số từ 74-84] Nó cũng là những bài thơ quyền lực nhất và ảnh hưởng nhất…
[With the outbreak of war in 1939, Pound was in Italy, where he remained, despite a request for repatriation he made after Pearl Harbor. During this period, his main source of income was a series of radio broadcasts he made on Rome Radio. He used these broadcasts to express his full range of opinions on culture, politics and economics, including his opposition to American involvement in a European war and his antisemitism. In 1943, he was indicted for treason in absence, and wrote a letter to the indicting judge in which he claimed the right to freedom of speech in his defence.
Pound was arrested in Rapallo by Italian partisans on May 3, 1945, was detained in Genoa, and was eventually transferred to the American Disciplinary Training Center (DTC) north of Pisa on May 22. Here he was held in a specially reinforced cage, initially sleeping on the ground in the open air. After three weeks, he had a breakdown that resulted in his being given a cot and pup tent in the medical compound. Here he gained access to a typewriter. For reading matter, he had a regulation-issue Bible along with three books he was allowed to bring in as his own “religious” texts: a Chinese text of Confucius, James Legge‘s translation of the same, and a Chinese dictionary. He later found a copy of the Pocket Book of Verse, edited by Morris Edmund Speare, in the latrine. The only other thing he brought with him was a eucalyptus pip. Throughout the Pisan sequence, Pound repeatedly likens the camp to Francesco del Cossa‘s March fresco depicting men working at a grape arbour.
With his political certainties collapsing around him and his library inaccessible, Pound turned inward for his materials and much of the Pisan sequence is concerned with memory, especially of his years in London and Paris and of the writers and artists he knew in those cities. There is also a deepening of the ecological concerns of the poem. The awarding of the Bollingen Prize to the book caused considerable controversy, with many people objecting to the honoring of someone they saw as a madman and/or traitor. However, The Pisan Cantos is generally the most admired and read section of the work. It is also among the most influential, having affected poets…
THI KHÚC 81
Zeus nằm trong bộ ngực thần cày cấy Ceres
Trước lúc mặt trời lên thì núi Thái Sơn [Taishan]
ít được yêu thích hơn đảo Cythera
Và ông ta nói: ‘Có nhiều người theo theo đạo Chúa ở đây – (có vẻ như
chủ nghĩa catholisme
và rất ít chất tôn giáo’
và ông ta nói: ‘Tôi tin là các vì vua biến mất’
(Các vì vua, tôi nghĩ, sẽ biến mất)
Đây là Padre José Elizondo
trong năm 1906 và trong năm 1917
hoặc khoảng 1917
Và Dolores nói:’Hãy đến chỗ cái chảo, em nhỏ’ ăn bánh
mì, tôi tuổi thanh xuân
Sargent đã vẽ cô ta
trước khi anh ta xuống
(có nghĩa: nếu anh ta xuống
nhưng trong những ngày này anh đã làm những phác thảo ngón tay,
ấn tượng về Velazquez trong bảo tàng Museo del Prado
và những cuốn sách giá một đồng Tây Ban Nha,
những chân nến bạc chiếm một phần [trong bảo tàng]
gió nóng thổi lại từ đầm lầy
và giá lạnh chết người đến từ những ngọn núi
Và sau đó Bowers viết: ‘nhưng sự thù ghét như thế,
Tôi chưa bao giờ nghĩ như thế’
và những người da đỏ ở Luân Đôn sẽ không xuất hiện giữa bè bạn của họ
(tức những bạn bè của Franco đang làm việc ở Luân Đôn) và ở
Alcázar
bốn mươi năm trôi qua, họ nói: ‘quay lại nhà ga để ăn
bạn có thể ngủ ở đây với một đồng Tây Ban Nha’
những cái chuông đeo cổ dê kêu leng keng cả đêm
và bà chủ nhà trọ cười toe toét:’ Eso es luto, haw!
mi marido es muerto
(đó là tang tóc, chồng tôi đã mất)
khi bà đưa cho tôi tờ giấy để viết
với đường viền màu đen nửa inch hoặc sâu hơn
nói ngày 5 tháng 3, ngày giờ địa phương
’Chúng tôi gọi tất cả những người nước ngoài là người Pháp’
và quả trứng đã vỡ trong túi quần của Cabranez
vì thế làm nên lịch sử. Basil nói
họ đánh trống trong ba ngày
cho đến khi hết thảy những da trống đều bị vỡ
(thứ lễ hội làng đơn giản)
và cũng như với cuộc đời anh ta ở quần đảo Canaries…
Possum quan sát thấy rằng điệu nhảy dân gian địa phương portagoose
được nhảy bỡi cùng các vũ công trong vài địa phương
trong [những] cuộc chào đón có tính chất chính trị…
kỷ thuật trình diễn
[nhà thơ Horace de Vere] Cole đã nghiên cứu THA61Y thế (Horace, chứ không phải G.D.H)
’Bạn sẽ tìm thấy’ nhà thơ lớn tuổi André Spire nói,
rằng mọi người trong tổ chức ấy ( tập đoàn ngân hàng bán lẻ ở Pháp
Crédit Agricole)
có người anh rể
‘Bạn là một, Tôi là số ít’
[tổng thống thứ hai của nước Mỹ] John Adams nói
cuộc trò chuyện về nỗi sợ hãi trừu tượng
với người bạn hoạt bát của ông [tổng thống kế nhiệm John Adams]
ông Jefferson
(phá vỡ câu thơ năm âm tiết, đó là sự nâng cao đầu tiên)
Hoặc như Jo Bard nói: họ không bao giờ trò chuyện nhau,
nếu đấy là thợ làm bánh mì và nhân viên giữ cửa hiển nhiên thế
đấy là [nhà văn Pháp] La Rouchefoucauld và đô thị Maintenon rõ
ràng thế.
‘Bạn hãy lấy lại can đãm’
‘La corata cho bạn’
Trong ít hơn một kỷ nguyên địa chất
[học giả người Mỹ] Henry Mencken nói
‘Một vài người là đầu bếp, một vài người không phải đầu bếp’
một số thứ không thể thay đổi’
’Iugx. . . . . ’emòn potí dwma aòn andra (*)
Được coi là gì trình độ văn hóa,
Cám ơn [đất nước] Benin vì danh sách này ở ngoài chiếc họp đóng kín
‘ừ không nói với ai tôi đã làm ra nó’
từ một cái mặt nạ tốt như bất kỳ cái mặt nạ nào ở Frankfurt
‘Nó sẽ khiến bạn rời khỏi,
Ánh sáng như một ngành nhánh [của vị bồ tát từ bi phương đông] Kuanon
Và lần đầu thất vọng với thứ không tốt
con tàu trần trụi – bến chuyển tải bó buộc,, nhưng rồi nhìn thấy
những cái bánh xe định vị cao
và hài hòa,
[triết gia, nhà thơ, nhà tiểu thuyết người ây Ban Nha] George Santayana
đến cảng Boston
và ở đó cho đến cuối đời ông cuộc đời mờ nhạt của một người
Tây Ban Nha
như vẻ thanh lịch được cho là không thể trông thấy
như Cuộc hỗn loạn đã làm cho v thành ra u ở [vùng bắc Ý] Romagna
và nói sự đau khổ là một hành động đầy đủ
lặp đi lặp lại những nỗi buồn mới
hành động cho đến cực điểm
và [nhà báo Mỹ] George Horace nói ông sẽ ‘gặp Beveridge’ (thượng
nghị sĩ)
Beveridge sẽ không nói và ông sẽ không viết bài
Nhưng George đã gặp ông bằng cách dựng lều cho ông ở khách sạn
của ông
và tấn công ông vào bữa ăn trưa bữa ăn sáng là một yến tiệc ba bài báo
và người đàn ông già nua của tôi đi trên [những] ngón chân chai
sạn tai tiếng
trong khi George là người trò chuyện với ông ,
ngang qua một bãi đất trống
nơi ông sẽ thỉnh thoảng nhìn thấy một con thỏ rừng
hoặc có thể chỉ là một sự thả lỏng
AOL!
một chiếc lá trong cuộc ngao du
trong những chiếc lưới sắt của tôi không có
[thần tình yêu] Althea
________
kịch bản
________
Chưa
Trước mùa lạnh chết người
Mang trên vai ngọn gió nhẹ
Tôi vươn qua bầu trời màu vàng
Lawes và Jenkyns giữ phần còn lại của bạn
Dolmetsch luôn là khách của bạn,
Anh vất vả với cây violon gỗ
Đặt nặng cả sự trang trọng lẫn sắc nét
Có phải anh đã uốn cong [tâm hồn] chúng tôi cái quãng tám của đàn lute?
Lawes và Jenkyns giữ phần còn lại của bạn
Dolmetsch luôn là khách của bạn,
Có phải bạn đã vội vàng trang phục nhẹ nhàng như thế một kiểu cách
vẽ lên chiếc lá từ cội rễ?
Có phải bạn đã vội vàng tìm thấy một đám mây sáng như thế
Như có vẻ chẳng phải sương mù cũng chẳng phải bóng râm?
Rồi thì làm tan biến tôi nói với tôi được rồi
Nếu Waller hát hoặc Dowland chơi đàn
Đôi mắt bạn nhẹ nhàng bất ngờ làm sụp đổ tôi
Có thể tôi là vẻ đẹp của thứ đường viền không thích hợp
Và trong 18o năm gần như không có gì
Và lắng nghe tiếng thì thầm dài ra
ở đó sự tinh tế mới trong đôi mắt cho ý định của tôi
cho dù là tinh thần hay [bị] thôi miên
nhưng điều khinh xuất gì ẩn giấu
hoặc ở lễ hội
không có cặp đôi nào tỏ ra tức giận
Nhìn thấy nhưng những ánh mắt và thái độ [là] nằm giữa những
đôi mắt
màu sắc, không bị gãy
bất cẩn hay không biết không có
trong hết thảy phòng lều
cũng không phải là nơi dành cho EidwV đầy đủ
cầu vượt, thấm vào
khuôn mẫu nhưng bóng râm là ở bên ngoài những nguồn sáng khác
bầu trời trong
biển đêm
màu xanh của hồ trên núi
tỏa ra từ những đôi mắt không che dấu trong thứ không
gian bị che mất một nửa
Những gì bạn yêu thích nhất vẫn còn,
cái còn lại là tạp chất
Những gì bạn yêu thích nhất sẽ không tái hiện nơi bạn
Những gì bạn yêu thích nhất thực sự là di sản của bạn
Thế giới của ai, của tôi, của bọn họ
hay chẳng của ai hết?
Đầu tiên là nhìn thấy, rồi sau đó sờ thấy
Chốn thiên đường, tuy nhiên nó là ngôi nhà lớn của địa ngục,
Những gì bạn yêu thích nhất thực sự là di sản của bạn
Những gì bạn yêu thích nhất sẽ không tái hiện nơi bạn
Con kiến là con nhân mã trong thế giới rồng phượng của nó
Hãy phá bỏ ảo tưởng của bạn, đó không phải con người
Hãy thực hiện lòng can đãm, hay sự trật tự, hay niềm vinh dự
Hãy phá bỏ ảo tưởng của bạn, tôi nói phá bỏ
Tìm hiểu về thế giới màu xanh những gì có thể là nơi chốn của bạn
Trong sáng kiến qui mô hay nghệ thuật thực sự
Hãy phá bỏ ảo tưởng của bạn
[ nhà thiết kế trang phục] Pakin phá bỏ
Cái mũ sắt [hay lồng sắt?] màu xanh vượt quá phong cách của bạn
‘Hãy tự làm chủ mình, rồi những người khác sẽ đem lại cho bạn’
Hãy phá bỏ ảo tưởng của bạn
Ngươi là con chó bị hành hạ dưới cơn mưa đá
Con ác là gồng mình lên trong ánh mặt trời biến dạng
Nửa trắng nửa đen
Bạn cũng không biết [con chim] bay từ đằng đuôi
Hãy phá bỏ ảo tưởng của bạn
Biểu lộ nào bạn căm ghét
Nuôi dưỡng giả dối,
Hãy phá bỏ ảo tưởng của bạn
Lập tức phá bỏ, kẻ khốn khổ trong lòng nhân đức
Hãy phá bỏ ảo tưởng của bạn
Tôi nói phá bỏ
Nhưng phải hàng động thay vì không hành động
đây không phải là ảo tưởng
Có tiếng gõ cửa với sự tao nhã
Rằng sự bộc trực sẽ mở ra
Đã hợp lại từ không khí truyền thống sống động
hoặc từ cái nhìn lão thực tốt đẹp ngọn lửa bất khuất
Đó không phải là ảo tưởng
Ở đây sự lầm lỗi là tất cả trong sự không chịu hành động
tất cả trong sự thiếu tự tin của do dự
(*)không biết nghĩa
https://www.poetryfoundation.org/poems/54320/canto-lxxxi
CANTO 81
Zeus lies in Ceres’ bosom
Taishan is attended of loves
under Cythera, before sunrise
And he said: “Hay aquí mucho catolicismo—(sounded
catolithismo
y muy poco reliHion.”
and he said: “Yo creo que los reyes desparecen”
(Kings will, I think, disappear)
This was Padre José Elizondo
in 1906 and in 1917
or about 1917
and Dolores said: “Come pan, niño,” eat bread, me lad
Sargent had painted her
before he descended
(i.e. if he descended
but in those days he did thumb sketches,
impressions of the Velázquez in the Museo del Prado
and books cost a peseta,
brass candlesticks in proportion,
hot wind came from the marshes
and death-chill from the mountains.
And later Bowers wrote: “but such hatred,
I have never conceived such”
and the London reds wouldn’t show up his friends
(i.e. friends of Franco
working in London) and in Alcázar
forty years gone, they said: go back to the station to eat
you can sleep here for a peseta”
goat bells tinkled all night
and the hostess grinned: Eso es luto, haw!
mi marido es muerto
(it is mourning, my husband is dead)
when she gave me a paper to write on
with a black border half an inch or more deep,
say 5/8ths, of the locanda
“We call all foreigners frenchies”
and the egg broke in Cabranez’ pocket,
thus making history. Basil says
they beat drums for three days
till all the drumheads were busted
(simple village fiesta)
and as for his life in the Canaries…
Possum observed that the local portagoose folk dance
was danced by the same dancers in divers localities
in political welcome…
the technique of demonstration
Cole studied that (not G.D.H., Horace)
“You will find” said old André Spire,
that every man on that board (Crédit Agricole)
has a brother-in-law
“You the one, I the few”
said John Adams
speaking of fears in the abstract
to his volatile friend Mr Jefferson.
(To break the pentameter, that was the first heave)
or as Jo Bard says: they never speak to each other,
if it is baker and concierge visibly
it is La Rouchefoucauld and de Maintenon audibly.
“Te cavero le budella”
“La corata a te”
In less than a geological epoch
said Henry Mencken
“Some cook, some do not cook
some things cannot be altered”
’Iugx. . . . . ’emòn potí dwma aòn andra
What counts is the cultural level,
thank Benin for this table ex packing box
“doan yu tell no one I made it”
from a mask fine as any in Frankfurt
“It’ll get you offn th’ groun”
Light as the branch of Kuanon
And at first disappointed with shoddy
the bare ram-shackle quais, but then saw the
high buggy wheels
and was reconciled,
George Santayana arriving in the port of Boston
and kept to the end of his life that faint thethear
of the Spaniard
as grace quasi imperceptible
as did Muss the v for u of Romagna
and said the grief was a full act
repeated for each new condoleress
working up to a climax.
and George Horace said he wd/ “get Beveridge” (Senator)
Beveridge wouldn’t talk and he wouldn’t write for the papers
but George got him by campin’ in his hotel
and assailin’ him at lunch breakfast an’ dinner
three articles
and my ole man went on hoein’ corn
while George was a-tellin’ him,
come across a vacant lot
where you’d occasionally see a wild rabbit
or mebbe only a loose one
AOI!
a leaf in the current
at my grates no Althea
______
libretto
______
Yet
Lawes and Jenkyns guard thy rest
Ere the season died a-cold
Borne upon a zephyr’s shoulder
I rose through the aureate sky
Lawes and Jenkyns guard thy rest
Dolmtsceh ever be thy guest,
Has he tempered the viol’s wood
To enforce both the grave and the acute?
Has he curved us the bowl of the lute?
Lawes and Jenkyns guard thy rest
Dolmetsch ever be thy guest
Hast ’ou fashioned so airy a mood
To draw up leaf from the root?
Hast ’ou found a cloud so light
As seemed neither mist nor shade?
Then resolve me, tell me aright
If Waller sang or Dowland played
Your eyen two wol sleye me sodenly
I may the beauté of hem nat susteyne
And for 180 years almost nothing.
Ed ascoltando al leggier mormorio
there came new subtlety of eyes into my tent,
whether of the spirit or hypostasis,
but what the blindfold hides
or at carneval
nor any pair showed anger
Saw but the eyes and stance between the eyes,
colour, diastasis,
careless or unaware it had not the
whole tent’s room
nor was place for the full EidwV
interpass, penetrate
casting but shade beyond the other lights
sky’s clear
night’s sea
green of the mountain pool
shone from the unmasked eyes in half-mask’s space.
What thou lovest well remains,
the rest is dross
What thou lov’st well shall not be reft from thee
What thou lov’st well is thy true heritage
Whose world, or mine or theirs
or is it of none?
First came the seen, then thus the palpable
Elysium, though it were in the halls of hell,
What thou lovest well is thy true heritage
What thou lov’st well shall not be reft from thee
The ant’s a centaur in his dragon world.
Pull down thy vanity, it is not man
Made courage, or made order, or made grace,
Pull down thy vanity, I say pull down.
Learn of the green world what can be thy place
In scaled invention or true artistry,
Pull down thy vanity,
Paquin pull down!
The green casque has outdone your elegance.
“Master thyself, then others shall thee beare”
Pull down thy vanity
Thou art a beaten dog beneath the hail,
A swollen magpie in a fitful sun,
Half black half white
Nor knowst’ou wing from tail
Pull down thy vanity
How mean thy hates
Fostered in falsity,
Pull down thy vanity,
Rathe to destroy, niggard in charity,
Pull down thy vanity,
I say pull down.
But to have done instead of not doing
this is not vanity
To have, with decency, knocked
That a Blunt should open
To have gathered from the air a live tradition
or from a fine old eye the unconquered flame
This is not vanity.
Here error is all in the not done,
all in the diffidence that faltered . . .
Source: Cantos of Ezra Pound (New Directions Publishing Corporation, 1993)
Nguồn: https://www.poetryfoundation.org/poems/54320/canto-lxxxi