Siêu hình học của người

 

 

 

 

ở đây là những gì tôi hiểu rất ít, hay không hiểu gì cả,
những gì đang diễn ra trong cộng  đồng người thân yêu 
của tôi

 

 

 

 

 

[Một]

và sau đó thì ánh sáng chập chờn trên những ngọn cây, chim chóc kéo nhau về tổ, lũ nai bắt đầu thiu ngủ nơi những bờ dốc, người lười nhác  không còn muốn đem lại cái nhìn thấy cho nhân gian, hay người đã tắt mất ngọn lửa sinh ra tự buổi chưa có bất kỳ chút mảy may ý tưởng nào về hiện hữu, hay là người muốn đánh đố thế kỷ tro than, tôi nói với ánh mặt trời đã tắt, và không tin  có sự thay đổi nào đó trong cuộc dịch chuyển tồn tại trong suốt cuộc tồn tại của tri thức con người, vào lúc giữa trưa nắng như nung tôi đang ngồi nơi bờ suối dưới tàng cây mư nghìn năm tuổi để chờ tiếng hót của con chim truyền thuyết thì mặt trời bỗng biến mất, núi rừng  yên ả như thể đang buổi giữa khuya, nhưng giữa trưa hay giữa khuya cũng thế thôi, tôi nói với ánh mặt trời đã tắt, và cứ nghĩ đến một thứ phép thử của thời gian, từ buổi khởi đầu của hiện hữu giá như giữa trưa chuyển sang giữa khuya thì cũng được thôi, tôi nói với ánh mặt trời đã tắt, tôi lên núi lần ấy là để kiểm nghiệm lời nói cha tôi để lại cho tôi ngày ấy: không chừng núi là dấu tích đầy đủ nhất của năm tháng… hay những gì đang diễn ra quanh tôi chỉ là những dấu tích của quá khứ, thoảng một âm ba của dịch chuyển, một chút nắng nung buổi trưa hè, một chút lặng lẽ buổi giữa khuya, cát bụi vụt qua ngọn lá, đây rồi, bóng tối đang ấp ủ giấc mơ của bầy thú hoang trên rừng, con nai ngủ nơi bờ dốc bỗng thấy mình hóa thành em bé bập bẹ nói tiếng người, nghìn năm tuổi hay một ngày tuổi cũng thế thôi, tôi nói với ánh mặt trời lúc bấy giờ đã trốn biệt ở đâu đó, đi trốn, hay là cố tránh nhìn thấy cộng đồng người của tôi đang trong thế kỷ tro than, à ra, trong trí tưởng tượng của mình, tôi đã nghe thấy tiếng hót con chim tôi đang chờ đợi, con chim đang hót trên cây mư nghìn năm tuổi, dày đặc âm tiết, và chìm đắm, ngổn ngang…rồi hết thảy rừng cây đã đứng lên giữa đêm tối, chung quanh tôi như có tiếng  thác đổ, có phải là cơn giận dữ lớn nhất thế kỷ hay không, tôi không biết, tôi lên núi lần này là để nghe tiếng hót của một loài chim trong truyền thuyết như một cách gẫm lại lời nói cha tôi  để lại cho tôi buổi ấy, nhưng có phải tiếng hót của con chim truyền thuyết đã làm bùng lên cơn giận dữ bóng tối, hãy trả lại cho chúng tôi cái nhìn thấy, từ trong đêm tối tôi nghe tiếng gào thét như đang tràn lên mặt đất, bấy giờ tôi như không cưỡng nổi sức tưởng tượng của mình, trong tưởng tượng của mình tôi nhìn thấy cơn đại hồng thủy của thế kỷ đang cuốn đi những mảnh vỡ của chữ, những fragement có từ những nghìn năm trước vốn được tích hợp thành kinh điển lưu giữ trong những tàng thư các vĩ đại của loài người, những kinh điển về cách thế tồn tại của các loài hoa, về cách bay lượn của các loài chim nơi bầu trời cao rộng, về những bước đi huy hoàng của các sinh vật trên mặt đất, những hệ hình huy hoàng tráng lệ đã hết thời rồi sao, những chuẩn mực như mặc định của trời cao không còn đủ sức đẩy lùi bóng tối nữa sao, bấy giờ tôi như không cưỡng nổi những ý tưởng kỳ dị ồ ạt thâm nhập vào nghĩ ngợi của mình, trong nghĩ ngợi của mình tôi nhìn thấy rừng cây rung rùng bỏ chạy khỏi dãy núi tôi  yêu từ buổi ấu thơ, gốc rễ chênh vênh, cây lá tả tơi, chết rồi, đang có sự khước từ thế giới cũ, cái thế giới vốn cưu mang trong nó bao nhiêu thứ vĩ đại, trong những ý tưởng kỳ dị của mình tôi bỗng  nhìn thấy cảnh chà đạp dưới chân những ông vua xấu xa nhất lịch sử những gì thuộc trí khôn của nhân loại, hãy trả lại cho ta những gì ta có, à, tôi đã nhớ, con chim truyền thuyết đã kêu lên [rất to] trong câu chuyện kể của cha tôi hồi ấy…tháng tư, đường lên núi có mùi hoa thạch thảo thơm như lúa thời con gái trên đồng làng, sỏi đá dưới chân tôi cứ làm rạo rực thứ nghĩ ngợi trinh tiết của tuổi hoa niên, à, tôi đã nhớ , chuyến lên núi ấy là cũng vào tháng tư, hoa thạch thiết đang nở, cha tôi đã kể cho tôi nghe về con chim truyền thuyết…tháng tư là tháng khắc nghiệt làm sống lại hoa tử đinh hương từ đất chết, ký ức trộn lẫn với ước mơ [April is the cruellest month, breeding Lilacs out of the dead land, mixing Memory and desire] à, tôi đã nhớ, nhà thơ Anh Thomas Stearns Eliot (1888-1965) vào năm 1922 đã viết về tháng tư như thế trong tác phẩm Đất Hoang [The Waste Land] của ông, nhưng những chuyện như thế là có thuộc về cuộc chống lại bóng tối hay không, tôi không biết…

 

[Hai]

đêm tháng tư tôi nằm ở bờ con suối rừng như thể nằm nơi bờ vực thẳm, bỡi tôi cứ có cảm tưởng chỉ thay đổi một chút trong nghĩ ngợi là có thể rơi vào thứ thế giới quan tăm tối, vào khoảng quá nửa đêm, hay quá ngọ nhỉ, bỡi trước đó một chút là giữa trưa, trước cái đêm tối một chút là ánh sáng của ngày, và tại sao lại xảy ra như thế trong cách nhìn thế giới của tôi thì tôi không biết, rất may là vào khoảng quá nửa đêm, một con ốc đá [ốc suối] từ đâu dưới lòng suối khô cạn nước bò lên nằm ngủ cạnh tôi, tôi không ngờ là tôi lại cảm thấy vui sướng, nếu không nói là cảm thấy vinh hạnh, khi một loài sinh vật không biết thể hiện cho các loài khác biết là mình đang nghĩ gì lại biết cách an ủi tôi, bạn chớ hoài công nghĩ ngợi về những gì nhìn thấy trong cuộc  dịch chuyển, bạn chớ hỏi tại sao lại thế này tại sao lại thế kia, bỡi ngay cả chính bạn cũng chẳng thể trả lời tại sao bạn là người mà không phải là con ốc đá, tôi cứ thấy như con ốc đá đang chuyển những lời lẽ ấy sang nghĩ ngợi của tôi, tôi ngồi bật dậy, thử đặt tay lên một sinh vật từ lâu con người vẫn xếp vào lòai nhuyễn thể [loài thân mềm] có mặt tự kỷ silua, đại cổ sinh, 400 triệu năm trước, một sinh vật sinh ra trước tôi đến 400 triệu năm đêm tháng tư lại mò  đến nằm ngủ với tôi, 400 triệu năm loài ốc đá vẫn trú ẩn ở các hang hốc tăm tối trên các con suối rừng, 400 triệu năm con ốc đá vẫn là con ốc đá,  một cuộc đi của một loài giống con người không gọi là cuộc đi, mà gọi là bò, vào khoảng quá nửa đêm con ốc đá đã bò lên nằm  ngủ cạnh tôi, tại sao cho đến lúc  bỗng dưng tôi không còn nhìn thấy có khoảng cách nào trong thời gian thì con ốc đá lại bò lên nằm ngủ với tôi, những chuyện như thế có thuộc về cuộc chống lại bóng tối hay không, núi rừng  bỗng có vẻ chẳng bình thường nếu không nói là có chút mưu toan nào đấy trong tạo dựng thế giới, bỗng phác vẽ lên một cuộc hiện hữu khác thường, nếu quả đã có một cuộc nổ lớn [big bang] thì núi rừng là  vật thể cất tiếng khóc đầu tiên, tiếng khóc giữa hỗn mang thơ mộng, bởi buổi ban đầu ấy là thi ca của thi ca, là triết học của triết học, hết thảy là của chính nó, mà mãi thật lâu về sau, những trăm ngàn triệu năm về sau, con người mới cướp giật những thứ ấy về cho mình, tôi cứ mường tượng một cuộc đùa giỡn trẻ thơ, trác việt, đất nguyên sơ cứ việc bềnh bồng giữa nước nguyên sơ, thời gian là niềm trinh bạch, cho đến lúc đất và nước bắt đầu có hình hài gần giống với thế giới của chúng ta hôm nay thì vẫn là thời gian trinh bạch, rồi bỗng một hôm, có vẻ như tạo tác bất ngờ bước vào cuộc chơi nghìn năm ngọn gió chướng thổi sau hè, hắn không để cho mọi thứ mãi mãi là trẻ thơ hồn nhiên, giữa biển nguyên sơ đất bắt đầu xô đẩy nhau, đùn đẩy nhau, trôi, giạt, lạc loài, cô độc, trong cuộc chống lại mưu toan vùi dập của tạo tác có vẻ  đất và nước vô cùng rối rắm, nếu không phải thế thì làm sao những cuộc gặp gỡ, tao phùng, rồi chia cắt, ly tan, đất và nước cứ nhập lại, rồi tách ra, các biển lớn, nhỏ, sinh ra, các núi non trùng điệp sinh ra, từ đấy là bốn biển năm châu [hay năm châu bốn biển cũng thế] từ đấy là máu, nước mắt, và sự giả dối [tạo tác có khi là sự giả dối vĩ đại], từ đấy là sự sống, sự tàn lụi, và cái chết, từ đấy là lửa nguyên sơ ngùn ngụt trào ra từ đất, và giá băng tràn mọi nẻo, nhưng tạo tác vẫn cứ mỉm cười [tôi vẫn nghĩ thế] với cái thế giới vừa tạo ra trong cuộc chơi đùa  tàn nhẫn, cho đến khi nhìn thấy con người [và bao nhiêu sinh vật biết nghe nhìn] trườn đi dưới chân ngọn lửa đang cháy, hay là đang hấp hối giữa giá buốt, vào lúc gần sáng tôi sờ thử thấy không còn con ốc đá ngủ cạnh mình, biết là con ốc đã phải trở về nơi hang hốc tăm tối của nó trước khi trời sáng, rồi tôi lại chìm vào giấc ngủ sâu, trong giấc ngủ sau cùng trong đêm, tôi đã vỡ ra, hóa ra ngọn núi tôi yêu tự buổi ấu thơ vẫn giấu trong nó những u uẩn, căm giận, nhưng những u uẩn nào và những căm giận nào thì tôi không biết, nhưng nó vẫn cứ giả vờ bình yên với vẻ hồn nhiên của mình, đang trong giấc ngủ sâu tôi bỗng choàng dậy bỡi những tiếng thét như xé rách bầu trời đêm, lửa từ trong lòng dãy núi tôi yêu tự buổi ấu thơ đang trườn ra, tôi chạy trối chết qua những xóm làng của thế kỷ mọi người cũng đang chạy trối chết, tôi cũng không biết những chuyện như thế có thuộc về cuộc chống lại bóng tối hay không,

 

[Ba]

những cộng đồng người dưới chân dãy núi tôi yêu lúc nào cũng làm cho tôi choáng váng bỡi những gì diễn ra ở đây lúc nào cũng làm cho nghĩ ngợi của tôi rơi vào rối rắm, mới hôm qua, nàng viết cho tôi… như anh biết đấy, nơi em đang cư  trú là chỗ giao cắt của những ngả đường, rất nhiều những ngả đường, từ phương nam gió mát trong lành đến, từ phương bắc lạnh lẽo đến, từ phía mặt trời mọc hay phía mặt trời lặn đến, hằng ngày dội lên mặt đất nơi đây là những tiết tấu của thứ văn hóa tứ xứ, một cuộc nhào trộn ngẫu nhiên đã diễn ra trong cái thành phố có vẻ như một thứ hỗn tạp vào bậc nhất thế giới, hình như trên đời này có thứ gì thì ở đây có thứ nấy, thư cho anh lúc nào em cũng thấy bối rối, vì không biết phải bắt đầu từ cái gì, từ những phù điêu hay tượng  các vị anh hùng xứ sở, những công trình kiến trúc đồ sộ ấy luôn là chỗ cho giấc ngủ trong đêm của những kẻ vô gia cư, hay bắt đầu từ cái vòi rồng to lớn phun nước suốt đêm ngày lúc nào cũng làm cho em có cảm tưởng như thể thành phố nơi em đang cư trú là thuộc về một thứ nguồn mạch bất tận nào đó, hình như trên  gương mặt bất cứ  vật thể nào em cũng nhìn thấy cái vẻ giang hồ tứ chiếng, kiêu căng, và phách lối, ngay trên gương mặt một tòa cao ốc, hay trên gương mặt của một vị chính khách, cái nét vẻ hơi máu me và hơi tiềm ẩn một thứ sức mạnh nào đấy cứ làm em thấy bối rối không biết phải dùng những lời lẽ thế nào để nói về chúng, chính là nhờ sự giao cắt của những ngả đường trên mặt đất, các nền văn hóa đã chảy được vào đây, người đứng đầu của xứ sở này bắt mọi người trong xứ sở phải gọi chỗ ở của mình là thành phố siêu hạng, nhưng em thì thích gọi là cộng đồng người siêu hạng, thì chẳng phải là người ta đang quyết quây quần lại mà sống [có vẻ không gì lay chuyển nổi]  từ những khu phố cao tầng cho đến những xóm nhà ổ chuột, tất cả đều cùng chung trên cùng một thứ tọa độ văn hóa, không sao đâu, anh cứ việc gọi là một thứ tọa độ văn hóa, chứ còn biết gọi cách nào khác để diễn tả  về một nơi chốn như thế, hằng ngày là thấm đẫm mặt đất nơi đây cả những tinh hoa lẫn những cặn bã của các nền văn hóa của các cộng đồng người trên mặt đất, thứ văn hóa tứ xứ khi em đến đây thấy đã có chúng, người ta có thể nhảy múa ca hát, có thể diễn hài kịch, hay bi kịch, người ta cũng có thể chửi bới nhau hay hôn nhau trên đường phố, đọc thư nàng đến chỗ này tôi lại bật cười trong đầu, bỡi cái thứ văn hóa nàng cứ tưởng chỉ chỗ nàng mới có, giờ đã tràn lan khắp nơi, ngay cái cộng đồng người dưới chân dãy núi tôi yêu xưa ra đường cứ lắng nghe mùi hoa sấu, không nghe mùi hoa sấu thì không còn là xứ sở mình, nhưng nay thì người ta bắt đầu không còn thèm nghe mùi hoa sấu nữa, mà bắt đầu thèm thứ văn hóa điên không điên tỉnh không tỉnh ở chỗ nàng, không phải tôi hoài cổ, mà vì sợ, nỗi sợ hãi có lẽ thuộc ký ức bầy đàn nền tảng của cuộc sinh tồn của cộng đồng người của tôi, thì chính nàng cũng nghĩ như tôi còn gì, ở thành phố siêu hạng này thì rất dễ lầm lẫn một kẻ hát rong với một người điên anh à, cả kẻ hát rong lẫn người điên đều thích lang thang ngoài phố, có thể xem những kẻ hát rong thời nay như những con bệnh của thời đại, họ hát những bài hát đầy tính ẩn dụ, nghe rách nát  như những buổi chiều tà mây đen phủ kín bầu trời, những con bệnh chỉ tự chữa cho mình bằng cách hát, bệnh gì thì em không diễn tả được, chỉ thấy bọn họ thường ngồi nơi quảng trường ấy mà hát, cái quảng trường to lớn đó cũng chiếm thật nhiều đất đai ở  đây, hay là em nói về cái nhà họp quốc tế ngay cạnh quảng trường trước khi nói về cái quảng trường danh tiếng đó, thì nhà họp quốc tế cũng là nơi danh tiếng ở thành phố này, cứ năm ba bữa lại nghe có hội họp quốc tế, có khi là cuộc gặp của các nguyên thủ quốc gia, có khi là cuộc gặp của các chính khách cỡ bự, có thể là người ta bàn chuyện cắt cổ một kẻ cầm đầu một xứ sở nào đó, hay là bàn luận cách triệt hạ một tay đầu trộm đuôi cướp nào đó trong chính giới, và cũng có thể là người ta gặp nhau để soạn thảo một kế hoạch mang tính toàn cầu, một cuộc tấn công đại qui mô vào một đất nước nào đó, hay có thể là một hoạch định có tính đột phá là vẽ lại biên giới các nước trên mặt đất, mà cũng có thể nhẹ nhàng hơn, họp để  ký kết nhau là không thèm chơi với một xứ sở nào đó vì sự bất đồng trong cách tiêu hóa thức ăn, tất cả những thứ đó cũng chỉ là những tin tức hành lang em nghe được, anh nhớ là, tất cả đều là tin tức, hằng ngày mặt đất nơi này chuyên chở không biết bao nhiêu thứ tin tức đại loại như thế, có điều, em thường đi ngang qua nhà họp quốc tế nên cũng thường nhìn thấy các vị chính khách, em mô tả sơ cho anh nghe, các vị ấy cũng ăn cơm mặc áo, cũng đi đứng ngủ nghỉ như chúng ta thôi, và em đã cố quan sát, thật nhiều lần, xem thử có lầm lẫn nào không, và cuối cùng em có thể nói với anh rằng, em đã nhìn thấy vẻ kiêu căng tàn nhẫn trên gương mặt của tất cả bọn họ, chỉ cách nay mấy hôm quảng trường thành phố lại có chuyện lớn, một cuộc xử án công khai, quảng trường chật ních người xem, cuối cùng em cũng chỉ nghe kể lại là người ta treo cổ một kẻ đối lập, đêm hôm ấy em một mình rảo bước trê n quảng trường, sau cuộc giết chóc diễn ra trong buổi sáng, quảng trường về đêm  im vắng khác thường, em đã dừng lại thật lâu nơi mặt đất có nhiều vết máu đã khô, và nghe như có tiếng thở dài của đất dưới chân mình,

 

[Bốn]

thật ra thì thứ văn hóa như nửa tỉnh nửa say ở phía mặt trời lặn hay phía mặt trời mọc, một mặt nào đó, đã lây lan cộng đồng người nhỏ bé ở làng tôi, người ta có đường phố, có hè phố, có chợ phố… để ca hát, nhảy nhót bất cứ lúc nào, nhưng ở làng tôi thì phải chờ, phải nói là luôn mong ngóng những dịp như thế, mong ngóng có một đám cưới vợ hay một đám gả chồng ở nhà ai đó trong làng, chỉ những dịp như thế mới có thể nhảy nhót, ca hát, cây cỏ đã ngủ yên từ lâu, binh lửa cùng những chuyển đổi triều đại và những chuyển đổi hệ hình văn hóa làm lịm tắt những tiếng hát của tổ tiên xưa: hát lúc làm ở đồng làng, hát lúc giã gạo hay lúc kéo sợi giữa đêm trăng, giữa cảnh đoạn lìa bỗng rót vào những tiếng lạ, nó là những cuộc âm vang của bốn biển, những hình thù ngoại tộc đầy quyến rủ nghe thấy được trên những phương tiện truyền thông, giữa thời bùng nổ tin tức, một bà cụ sáu mươi trong cộng đồng người làng tôi không biết gì ngoài ngôi làng quê của mình cũng có thể nói một câu khi nghe nhạc jazz của người Mỹ gốc Phi phát đi từ một chiếc đài bán dẫn  hay từ một máy thu hình của nhà ai đó  trong làng: nghe đánh trống giống lúc nhỏ đi xem hát bội ở làng quá, ờ… con chim quyên xuống đất ăn trùn, những tiếng đã lãng quên như thế trong cuộc đời  bà cụ chính là chỗ để cho bà nghe được những tiếng lạ, có thể là còn quá mơ hồ, nhưng những tiếng lạ, thứ vật thể bao giờ cũng có vẻ quyến rủ đối với  con vật có tư duy là con người, nhưng đấy là chuyện bà cụ không bao giờ ra khỏi làng, con đường đất bây giờ không còn là chuyện phải bàn, bây giờ, việc dịch chuyển qua lại giữa ruộng đồng và phố chợ của cộng đồng người làng tôi là chuyện bình thường, chỉ có điều, những gì một người của cộng đồng cày ruộng nghe thấy ở phố chợ có khi là chẳng có gì, nhưng có khi như một tra vấn âm ỉ trong nghĩ ngợi, có khi như một bùng vỡ trong nhận thức, những khoảng cách văn hóa, có khi là quá lớn, giữa hai vùng đất cùng xứ sở,  có thể làm dấy lên nỗi đau thầm kín, hay nỗi thèm muốn thầm kín, hay cũng có thể làm dấy lên niềm tức giận mơ hồ [tức giận nhưng cũng chẳng biết tức giận ai ] cái cách phân bố hạnh phúc và khổ đau của lịch sử luôn là những tra vấn đối với chính lịch sử, nhưng anh Bốn Chẽn ở làng tôi đã phủ nhận tuốt tư duy của những người có chữ: không thể bỏ đất đai ông bà để lại để đi nơi khác, anh Bốn Chẽn nói mỗi khi có ai đó rỉ tai rủ rê anh đi nơi khác làm ăn,  mà hầu như người làng tôi ai cũng nghĩ thế, cái thế giới quan như đinh đóng cột này đã giải thích [được] tại sao đồng bào tôi sống được trên những mảnh đất nghèo khó từ thế hệ này sang thế hệ khác, rồi cái văn hóa nhảy múa ca hát từ phía mặt trời lặn hay phía mặt trời mọc xâm nhập vào làng tôi tự hồi nào chẳng để ý, như bản năng tiếp nhận những tồn tại khách quan, ngày ngày người làng tôi  vẫn lưu vào tâm trí những gì nghe thấy hay nhìn thấy từ các phương tiện truyền thông hiện đại: thứ văn hóa đa phức và  quyến rủ, sản phẩm của vô số những miền phố chợ trên mặt đất, hay như là sự phục hưng văn hóa ca hát của tổ tiên đang bị mai một, hay như là sự bức phá cái buồn tẻ của làng quê, bỗng mọi người thích nhảy múa và ca hát, người chị lam lũ trên ruộng đồng thay bộ quần áo khác bước vào đám gả con gái lấy chồng của vợ chồng anh Bốn Chẽn cầm mi cơ rô lên, hát theo bài hát đang vang ra từ giàn ka ra ô kê còn mới toanh anh Bốn Chẽn thuê từ cái ban nhạc đồng quê của đám con trai con gái trong làng vừa hùn hập mua sắm hồi tháng trước, là hát nhép, nhưng hát cách gì cũng là cách thể hiện nhu cầu tình cảm của con người, rồi hết thảy những bà chị, năm mươi hay sáu mươi gì cũng nhảy lên cầm lấy mi cơ rô, có vẻ như một người hát thành thạo để thể hiện những gì đang  khởi lên ở trong tâm tư, rồi không phải chỉ vợ chồng anh Bốn Chẽn, đến lượt ông Tám Theo ông Chín Quờn cưới vợ cho con trai, ông Khả gả con gái lấy chồng, nhà nào cũng rước cái ban nhạc đồng quê về hát, phải có dàn nhạc để bà con trong làng đến hát, về sau, văn hóa ca hát của làng tôi bước sang một khúc ngoặc mới, là khi có cưới hỏi thì phải xuống huyện xuống tỉnh tìm thuê những ban nhạc danh tiếng hơn cái ban nhạc trong làng, có cưới hỏi là phải làm cho ra hồn, và nhất định là phải có dàn nhạc thật danh tiếng để bà con trong làng ca hát, thì ra ca hát trở thành nỗi háo hức của những người cày ruộng, ca hát thành ra cái hội chứng, nếu là thời trước thì  người ta không gọi là hội chứng mà gọi là dịch ca hát, thứ hiện tượng xã hội lây lan như sự lây lan của dịch bệnh, sau đám tiệc thì nhà nào cũng thiếu thóc ăn, bỡi nhà nào cũng phải bán bớt thóc ăn để sắm sửa tiệc cưới hỏi, hội chứng ca hát kéo theo hiện tượng xã hội không đủ thóc ăn, tôi cũng không biết nên buồn hay nên vui với những nét văn hóa có vẻ mới mẻ đang diễn ra ở cộng đồng người làng tôi,

 

[Năm]

nếu không có sự phản ứng của anh Bốn Chẽn tôi vẫn chưa hiểu hết về nền văn hóa của cộng đồng người nằm ngay dưới chân dãy núi tôi yêu, thường người ta làm địa chí một tỉnh, hay địa chí một nước, nhưng bấy giờ  tôi cho rằng chỉ cần làm một cuốn địa chí của làng, nhưng làm sao cho thật hay, là sẽ nổi tiếng thế giới, nghĩ thế, tôi liền bắt tay vào việc làm phác thảo, chưa có tấm bản đồ nào ghi tên làng tôi, cũng chưa có sách nào nói đến làng tôi, có nghĩa, nếu cuốn địa chí làng  tôi có mặt trong đám sách vở văn chương của đất nước thì đấy là chuyện mới tinh đối với người đọc, ở trong làng thì tôi thuộc vào số những người có chữ nghĩa, nhưng quả tình là chưa có người nào có chữ nghĩa dám cả gan nghĩ đến chuyện làm một cuốn sách cho làng quê của mình, phải nói một câu là nhờ khí thiêng sông núi nơi chôn nhau cắt rốn mà tôi mới có được cái chí hướng trước tác ấy, người làng tôi tuy chưa có ai ra làm vua, hay làm quan, nhưng nếu chép cho thật đầy đủ, chỉ mỗi mục nhân vật chí cũng đã chiếm mất một cuốn, ông Sáu Sống, người chuyên thổi kèn đám chết, đã làm cho cả người lẫn bò trâu đều khóc mỗi khi tiếng kèn của ông nức nở cất lên giữa tiếng chiêng tiếng trống, ông Hai Tự thì luôn âm thầm tự hào với cả nước rằng mình là hậu duệ  của một vì vua, bỡi theo lời truyền thì một cuộc tình đã diễn ra giữa chúa Nguyễn Hoàng với bà cao tổ của ông lúc chúa vào quê tôi khẩn đất, và khi chúa quay về Dinh Cát thì đã để lại cho bà ấy một giọt máu của họ Nguyễn, còn như nói đến cuộc xiển dương hát ca trù do mẹ con  bà Lưu Thị Thường khởi xướng là đụng đến một câu  chuyện dài dằng dặc kéo dài đến mấy chục năm, câu chuyện đã một thời nối liền quê tôi với đất kinh sư, phải chia ra thành chương hồi mới nói hết, khi hình dung các đề mục của cuốn địa chí, tôi cứ thấy như mình sắp làm một công việc vô cùng lớn lao là thâu tóm toàn bộ cuộc đời vào trong sách, quê tôi là  miền bán sơn địa, đêm đến thì lũ thú trên dãy núi phía nam làng lại kéo xuống đồng làng phá lúa, mà đám chim te te thính hơi người  thì như đám vệ sĩ trời sai riêng xuống đây để xua đuổi lũ thú  xâm phạm của cải của con người, đâu đã có ai nói đến cội duối mấy trăm năm tuổi chỗ đầu làng, nếu có, người ta cũng chỉ nói vào mùa nam thổi lũ trẻ trong làng tụ về đây để ăn quả chín, hoặc là người ta chưa biết, hoặc có biết, nhưng lại cho là điều không đáng nói, vì đấy chỉ là chuyện những con ngựa đã được đem đến cột tạm nơi cội duối già ấy trong buổi rối ren của lịch sử, ngựa của chúa Nam Hà lúc chạy trốn chúa Bắc Hà, hay là ngựa của tướng Tây Sơn lúc bị lực lượng của đám hậu duệ chúa Nam Hà truy đuổi, vậy là tôi đã có dịp để dùng ngọn bút xuân thu mà vạch ra những nghĩa lý trắng đen của quá khứ, nhưng phải chờ đẻ đái xong, chú mới được đưa tôi vô sách, chị Bốn Chẽn nói, đấy là người phụ nữ tôi gặp đầu tiên trong cuộc điền dã cho cuốn địa chí của mình, ở làng tôi, chị Bốn Chẽn chỉ khác mẹ Âu Cơ về chuyện đẻ trứng, nhưng chẳng ai xứng danh hậu duệ của mẹ Âu Cơ hơn chị, bỡi chị đã đẻ một hơi mười đứa, tất  nhiên là các vị làm công việc vận động sinh đẻ có kế hoạch đã cười trừ với chị tự lúc chị mới đẻ đứa thứ ba, nhưng ai dám bảo là chị Bốn Chẽn  sinh đẻ không có kế hoạch, ở trong làng, mọi người đều biết đám con của chị vẫn tăng trưởng bình thường, có nghĩa chẳng có đứa nào nằm trong khung suy dinh dưỡng, tôi lại muốn mở mục huyền thoại của làng để đưa chị ấy vô đó, cũng chỉ có  bấy nhiêu phương cách làm ra cơm áo (năm sào ruộng trên đồng làng, một cặp bò cày gòm một đực một cái, một con heo nái mỗi năm đẻ hai lứa, vài ba mái gà ta, với một mảnh vườn chuyên trồng cà trồng ớt, nhưng cũng chỉ trồng được vào mùa nắng, vì sang mùa mưa thì đất sẫy) mà chị Bốn Chẽn vẫn cứ đẻ dài dài, chẳng có đứa nào bị đẻ non, cũng chẳng có đứa nào chết vì thiếu đói, thì chẳng phải là huyền thoại hay sao, tôi nói là  chỉ đưa cái tinh thần huyền thoại ấy vô sách, còn chị đang mang thai thì cứ việc mang thai, nhưng chị nhất định không chịu, tôi đã nói là chú không được đưa tôi vô sách trong lúc tôi mang thai, chị Bốn Chẽn nói, còn khi xoay sang bí quyết đóng cày của anh Bốn Chẽn thì cũng bị anh ấy từ chối, anh Bốn Chẽn là người nối nghiệp đóng cày của ông Hai Thước, cha của anh, cầm cây cày của anh Bốn Chẽn bước theo đôi bò trên ruộng thì tựa như chẳng cầm cày, đấy là lời bình của thiên hạ về tài đóng cày của anh Bốn Chẽn, tôi muốn đưa chuyện đóng cày vô mục nông nghệ của làng, nhưng anh Bốn Chẽn đã lập tức phản đối, ngày nay cái cày máy đang muốn chiếm hết ruộng đồng, tôi xin chú chớ làm tanh bành cái cày gỗ của dòng họ nhà tôi, thì ra anh Bốn Chẽn sợ tôi làm lộ cái bí quyết đóng cày gỗ của cha con anh, tôi chỉ đưa vô sách cái cày gỗ anh đóng, khi đã biết nó thì  nhiều người đến nhờ anh đóng cày chứ có sao đâu, tôi giải thích, thôi, chú hãy về đi chẳng sử sách gì hết, anh đuổi tôi, mới ra quân đã gặp trắc trở, tôi cũng hơi nản chí, nhưng khi nghĩ đến hình ảnh cuốn địa chí của mình nằm ngang ngửa  giữa mớ sách vở văn chương thời đại là tôi lại thấy hăng lên, cứ nghĩ đến ngày tên tác giả của sách được gắn với bao nhiêu lời lẽ sang trọng ( tác giả, một nhà nghiên cứu có cỡ, vân vân) và có bao nhiêu là nhà nghiên cứu nước ngoài tìm đến gặp tôi, cứ nghĩ đến ngày ấy là tôi lại thề trong lòng là dẫu tan xương nát thịt cũng phải làm cho bằng được, vào một đêm mùa thu tháng tám có tiếng ếch nhái kêu mưa, ông Hai Thước đóng cày gỗ đã đánh thức tôi dậy, và tôi đã phác thảo về ông ấy theo thứ ký ức tuổi thơ của tôi,

 

sáng ra là tôi vội vã chạy sang nhà ông để nhìn thử cái cày gỗ  ông đang đóng có đúng như mình đã nhìn thấy trong mơ hay không, buổi ấu thơ của tôi, nắng cũng như mưa, con chim quành quạch đậu nơi bờ giếng chờ tôi, dưới bóng cây mít lâu niên đằng sau ngôi nhà gỗ, ông cày gỗ cũng đang chờ tôi, chúng tôi: ông cày gỗ, con chim quành quạch, và tôi, một cuộc đồng hành  vào cõi vui, hình như con chim quành quạch nhìn thấy tôi thì vui, cái cách nhảy qua lại trên bờ giếng của con chim quành quạch là  một niềm vui, hình như ông cày gỗ thấy tôi thì vui, cái cách ông nện nhè nhẹ vồ lên chiếc đục, hay kéo nhè nhẹ chiếc cưa,  để tạo ra  hình dáng cái trạnh cày, cái náp cày, hay cái ách cày…  là một niềm vui, bấy giờ tôi như bị mê hoặc  khi  nhìn thấy ông Hai Thước, ông cày gỗ,  ông cụ nhà quê  nhập vào thứ công cụ lật đất  bằng cách đục, chuốt, cắt, cưa, rồi ngắm nghía … cái mẫu gỗ mới được  làm ra từ cái khúc gổ lấy ở dãy núi phía nam làng tôi, cái mẫu gỗ  giống như một con chim, một con chim gỗ, không có cánh, sau đó sẽ chui vào lòng đất để lật đất lên cho những vụ gieo trồng được phát động từ  những trăm triệu năm trước trong cuộc cách mạng đá mới, cái trạnh cày đấy cháu, bấy giờ ông cày gỗ giảng giải, tôi lại thấy mình như đang cùng con chim gỗ chui vào lòng đất, 

 

là chú đang nói với tôi về chuyện gì vậy, nghe tôi đọc xong đoạn viết trên, anh Bốn Chẽn hỏi, tôi đã quyết định đem bản phác thảo về ông Hai Thước đọc cho anh ấy nghe, và nghĩ,  nhất định anh ấy sẽ kể cho tôi những bí quyết về cây cày gỗ, tôi muốn đưa ông cụ thân sinh của anh vô sách về làng ta đó, tôi nói, lập tức anh Bốn Chẽn phản ứng: chú đã nghĩ không trúng về cha tôi, với lại hồi ấy người ta gọi là ông chánh Thước, chứ chẳng ai gọi là ông cày gỗ như chú, với lại đó là chuyện của nhà tôi, ông nội tôi truyền cho cha tôi, rồi cha tôi truyền cho tôi, trước khi chết cha tôi đã căn dặn tôi chỉ được truyền nghề đóng cày gỗ cho con cái trong nhà, tôi nói lại, nó chuyện của nhà tôi, nhưng cái cày máy nó sắp chiếm lĩnh hết thảy ruộng đồng ở nước ta,  anh còn dấu nghề đóng cày gỗ chi nữa, tôi nói, anh Bốn Chẽn đứng lên, bấy lâu  ở trong làng tôi chưa bao giờ thấy anh giận dữ tới mức thế, cái cày máy thì  mặc xác nó, còn việc đóng cày  gỗ là  của dòng họ nhà tôi, hãy để cha tôi yên dưới chín suối, anh ấy thẳng tay đuổi tôi, lúc cơm tối xong, vào ngồi ở bàn viết, ngọn bút xuân thu của tôi bắt đầu chao đảo, đến nửa đêm thì không còn đứng trên giấy nổi nữa, tôi đâu biết việc làng xóm vinh thăng nghề đóng cày gỗ cho ông Hai Thước, ông chánh Thước, và nghề đóng cày gỗ của dòng họ anh Bốn Chẽn lại trở nên thiêng liêng đối với  anh như thế, đến lúc ấy tôi  mới chịu thừa nhận rằng sự hiểu biết của mình ví như một hạt quark nhỏ nhoi mà cuộc sống thì rộng lớn như vật chất chứa trong vũ trụ, tôi đi chôn phác thảo cuốn địa chí của tôi vào một đêm mùa thu tháng tám có tiếng ếch nhái kêu mưa inh ỏi trên đồng làng,

 

 

 

[Sáu]                      

rồi tôi  cứ đọc đi đọc lại mãi phác thảo của cha tôi về một ngày có đủ ánh mặt trời như thể để loại bỏ những gì thuộc về u tối vẫn còn lẩn khuất trong nhận thức của mình, vâng, “phác thảo về một ngày có đủ ánh mặt trời”, một tường trình về cuộc sống, hay bài ca của đất, chép trong văn tập Tan Rã của cha tôi,

 

không còn nghe tiếng trẻ khóc, không còn nghe tiếng heo gà, không còn nghe tiếng những người mẹ quát mắng con cái…như những buổi sáng khác, làng bỗng được thanh lọc hết thảy những tạp âm thuộc về những tháng năm bụi bặm, như đang có tiếng sấm vọng lại từ phía chân trời xa, nhưng không phải, những bước chân đang bước đi giữa thinh  không,

 

vào lúc mặt trời lên thì diễn ra cuộc diễn thuyết như cơn sốt thế kỷ,

 

ta ra đi vào lúc còn nguyên khí tiết của cuộc đọ sức lừng lẫy giữa các thế lực, không có chiến thắng, cũng không có chiến bại, những giọt nước mắt bắt đầu trộn với nụ cười, có nghìn lời thốt lên, nhưng chỉ là một, nguyên sơ, những tiếng ấy là được bắt đầu khắc vào chốn  vĩnh hằng,

 

tôi thấy có cả ông trưởng làng trong số những người làng đến dự cuộc diễn thuyết,

 

tôi thấy có cả ông cụ cao tuổi nhất làng, theo lời ông ấy thì đến lúc ấy ông đã sống nơi mặt đất một trăm lẻ tám năm, đã vượt được mức tuổi trong chúc tụng,  bách niên giai lão, bọn họ nói người làng tôi được tự do cày xới trên đất đai của mình, được tự do ngửi lấy mùi hương từ những cây trái trồng được, nhưng tất cả những lời đó là dối trá, ông cụ cao tuổi nhất làng nói, và vị sứ giả đến từ buổi nguyên sơ lập tức đem những lời ông đặt vào chiếc họp bằng thủy tinh có hình dạng vòm trời, cẩn mật, và kỳ bí,

 

nắng, một sớm mai hồng, nguyên khí nguyên sơ như đang tan chảy vào nắng, buổi mai vỡ ra những chi tiết tăm tối từ lâu vẫn được nén chặt trong những chịu đựng, có quá nhiều những sự co giật vì chịu đựng như những cơn hấp hối,

 

tôi thấy ông cụ cao tuổi nhất làng lấy từ ngực áo ra bản tường trình, những cuộc triển lãm người chết, những buổi tuyên truyền về sự giả dối, và con đường làng luôn dày đặc bước chân của những kẻ cướp, ông cụ lượt đọc, và đứng lên, dõng dạc, như muốn dẫm nát hết thảy những lầm than,

 

 

ta ra đi từ lúc hỗn mang, nhìn thấy rõ những cuộc nhảy múa điên cuồng của bụi băm, vị sứ giả đến từ buổi nguyên sơ nói, mở cuốn sổ nguyên sơ ra dưới nắng, và bắt đầu sao chép nội dung bản tường trình của ông cụ, cẩn mật, và kỳ bí,

 

 

có tiếng con chim cu gù tình nơi bờ tre làng, lập tức lũ chim cu đồng từ khắp nơi kéo tới, bầu trời trên đầu tôi dày đặc lũ chim cu,

 

tôi thấy ông cụ lại đứng lên, lũ chúng đã cướp hết sự tự do, cướp hết quyền của con người, cướp từ lâu, ông cụ nói, đã bị cướp sạch hết từ lâu, những người làng đang dự diễn thuyết cùng nói, lập tức vị sứ giả đem những lời ông cụ và lời những người làng đặt lên chiếc bàn cân làm bằng hương thơm của những  loài hoa ở trên trời, phía bàn cân có lời ông cụ và lời những người làng quằn xuống,

 

nắng, một sớm mai hồng, vị sứ giả mang hết thảy những tư liệu thu thập được ở làng tôi ra đi, một ngày thật lạ, vị sứ giả đi rồi người làng ai nấy đều cảm thấy mình trẻ lại đến vài mươi tuổi,

 

bây giờ đâu cần đến cái này, ông cụ cao tuổi nhất làng nói, ném cây gậy tre bấy lâu vẫn dùng trong  đi lại, loay hoay xắn những ống quần ống áo vốn của người già rộng thênh thang, và bắt đầu nhảy nhót,

 

có chuyện lớn rồi, có người từ nhà làm việc của làng chạy tới, ông trưởng làng bỏ cuộc diễn thuyết ra về từ lúc nào chẳng ai biết, giờ hóa thành ông lão đang nằm hấp hối ở nhà làm việc của làng,

 

một ngày thật bình yên, và thật lạ,

 

 

[Bảy]

rồi tôi lại nằm  mơ thấy mình đi đất Bạt, cuối cùng thì tôi cũng đến được nơi ở của ngài bạo lực, đất Bạt những ngày mùa đông trông buồn tựa gương mặt kẻ thất tình, anh không thể gặp vào lúc này, vì ngài ấy đang bận tĩnh trí, tùy tùng của ngài bạo lực là một ông già đầy nét phong trần đã thông báo cho tôi biết, tôi hơi thất vọng, chẳng dễ dàng chút nào để đến được đất Bạt, kẻ chưa biết nơi ấy tất nhiên chẳng thể chỉ đường cho tôi, chỉ tỏ ra sợ hãi, còn những kẻ đã biết thì tìm cách lảng tránh khi nghe tôi hỏi đường đến đất Bạt, nơi ấy như nỗi sợ hãi đối với cả thế giới, những dấu tích ngài bạo lực để lại nơi mặt đất, hay những lời loài người dành cho ngài thì quá nhiều, nhưng với tính hiếu kỳ của tôi lúc bấy giờ là  muốn nhìn tận mặt ngài ấy, anh có hơi liều lĩnh không đấy, ông già tùy tùng ngài bạo lực hỏi tôi trong lúc ông đang sửa soạn cho việc tiêu hủy một chiếc ghế ngồi có hình dáng trông tựa như nửa vòm trời, tôi không biết phải trả lời ông thế nào nên tìm cách chuyển sang chuyện chiếc ghế, làm bằng vàng cả sao, thưa ông, tôi bắt đầu hỏi về chiếc ghế, vì nhìn thấy nó toát lên một màu vàng chói, không phải bằng vàng, mà bằng hết thảy những kỳ vọng của những loài cây cao to trên hết thảy những khu rừng trên mặt đất, trong lúc tôi đang cố hiểu cách nói ẩn dụ của người tùy tùng thì ông đã chất củi thành đống, và bắt đầu đốt lửa, khi lửa đã lan ra khắp củi, ông vác chiếc ghế ném vào lửa, dường có mùi gì rất lạ, thưa ông, tôi nói, anh cũng thính mũi đấy, ghế làm bằng những kỳ vọng của các loài cây cao to trên rừng, nhưng lại được sơn bằng máu người, mùi lạ là mùi máu cháy đấy, ông già tùy tùng ngài bạo lực nói, rồi bỗng la to lên khi trông thấy tôi cúi xuống với xác chiếc ghế đang chảy thành dòng: hãy tránh ra xa, hết thảy đều đã bị thấm nhiễm niềm hung bạo, tôi hơi hoảng, cứ muốn rời khỏi nơi ấy ngay, nhưng đường đến đất Bạt rất khó, tôi không thể bỏ về vào lúc chưa đạt được mục đích của mình là phải tận mặt ngài bạo lực, hay là anh hãy về đi, bỡi ngài ấy đang tĩnh trí chuyển sang sự nghiệp khác, ông già tùy tùng nói, nhưng chuyển sang sự nghiệp khác là sao, tôi hỏi, và ông già tùy tùng  chưa kịp trả lời tôi thì  cửa vào đã mở, hãy cho nó vào, có tiếng nói từ bên trong vọng ra, ông già tùy tùng dẫn tôi vô chánh điện, giờ thì nhà ngươi ra đi được rồi, ngài bạo lực nói với kẻ tùy tùng cuối cùng của mình, và quay sang tôi, hãy xem  đi, ngài ấy ném cho tôi cuốn sách dày cọm: Sự tích của những cơn giông bão, tôi cũng ngồi bệch dưới đất, như ngài bạo lực, để đọc,

 

 

1) mùa thu, tháng tám, ta đem quân san bằng đất Bạt, đốt cháy cả cây cối, súc vật và đám người bản xứ, lập ra chốn phát tích của dòng họ bạo lực,

2) mùa hạ, tháng  sáu, ta sang sông Mư, con sông lớn nhất trên mặt đất, nhổ bỏ hết thảy các cột mốc biên giới của gần ba trăm xứ sở trải dài từ sông Mư về phía mặt trời lặn, xác người trong các trận giao tranh làm nghẹt sông Mư, nước tràn lên hai bên bờ gây nên những trận lũ lụt lịch sử,

3) có nghĩa gì một cuộc càn khôn lận đận, nhưng ta cũng nể mặt đám binh sĩ của ta, tháng sáu mùa hạ năm ấy, sau khi thống nhất đất đai từ sông Mư về phía mặt trời lặn, ta đem quân sĩ sang sông Búc gặp giáo chủ đạo ấy để luận bàn về sự an bình cho tâm hồn, thấy đạo ấy chẳng thể làm được sứ mệnh này, ta bèn giết giáo chủ, san bằng hết thảy các giáo đường, bỡi không muốn cho đạo ấy dây dưa nơi mặt đất,

4) mùa xuân, tháng ba, ta thấy có hứng thú trong lòng, bèn nghĩ ra thứ chủ thuyết làm cho con người cảm thấy hứng thú với những cách chết do mình chọn ra, chỉ trong một năm, tính thử, thấy đến hơn nửa triệu người trong đế quốc của ta chết với đủ thứ kiểu chết,

 

 

tôi mở thử trang sách cuối cùng, thấy ghi đến sự tích thứ hai nghìn một trăm, tôi bắt đầu thấy khó thở, không đọc nữa cũng không sao, thấy tôi cứ ngồi im trước sách, ngài bạo lực nói, tôi cũng chẳng biết nói sao với ngài ấy, bỗng ngài bạo lực cười to, đừng tưởng ta trọng ngươi mà tiếp ngươi, đã đến lúc ta chuyển sang sự nghiệp khác, nhưng vẫn còn muốn nhìn thử mặt  đứa hiếu kỳ, ngài bạo lực nói, và chỉ trong chớp mắt tôi không còn trông thấy ngài  ấy nữa, cuốn Sự tích của những cơn giông bão cũng biến mất, một dòng sông máu bắt đầu cuộn chảy trước mắt tôi, và từ cuối dòng sông ấy, tôi thấy những ai đó bước lên bờ, rũ sạch những máu me, chăm chắm bước về phía tôi, dáng bọn họ hệt như dáng ngài bạo lực, tôi cảm thấy rất sợ, vội vã rời khỏi chốn ấy, sau giấc mơ về đất Bạt tôi luôn cảm thấy cuộc sống con người là vô cùng bí ẩn,

 

 

[Tám]

nhưng cuộc sống của cộng đồng người làng tôi  có vẻ như một giấc mơ dài, một giấc mơ giữa ngày, tôi lại cứ đọc đi đọc lại mãi câu chuyện mất ngủ cha tôi chép trong văn tập Tan Rã của ông, mới đầu thì chỉ ông hương [bổn] Quì kêu mất ngủ, ông Nhiêu lò rèn nghe ông hương Quì mất ngủ, sợ quá, cũng mất ngủ, rồi cả làng mất ngủ, lũ các ngươi chớ tưởng chết là xong, khi còn sống, rõ ràng là miếng cơm lũ các ngươi ăn hằng ngày là lấy từ đất đai của triều đình, rồi khi chết, rõ ràng nấm mồ lũ các người cũng lại là nằm trên đất đai của triều đình, cho nên, sau khi lũ các ngươi chết thì kẻ người thân của lũ các người, những kẻ còn sống, phải đóng thuế mồ mả cho lũ các người là lẽ thường…hay là cái sắc luật đánh thuế người chết triều đình sắp ban bố đã khiến cho người làng mất ngủ, ai mà biết có phải vậy không, như vậy là chúng đã động đến mồ mả ông bà tổ tiên chúng ta, ông hương Quì nói với đám con cháu của ông, rồi chống gậy ra đi, ông đi đâu bây giờ, vợ con ông và những người trong làng theo hỏi ông, đi trốn thuế người chết, ông nói, nhưng trốn bằng cách nào, mọi người đều cảm thấy không yên lòng, tới xứ sở khác mà chết, ông hương Quì nói, rồi bỗng ông tuyên bố mồ mả tổ tiên của ông ở đây thì ông chẳng đi đâu cả, ta sẽ nằm xuống nơi đây cùng tổ tiên ta, thấy ông hương Quì nói cứng thế, vợ con ông rất mừng, làng xóm cũng rất mừng, nhưng mọi người lại lo là đầu óc ông có vấn đề, hay lo lắng quá hóa cuồng, ngày trước, khi giữ chức hương bổn của làng, vô sổ một đồng thuế thân của người làng ông nhớ rõ một đồng, thời đó, đóng thuế người sống người ta nói là đã quá áp bức dân, hay là cái cách đối xử dân quá tàn tệ ngày nay khiến đầu óc ông trở nên rối rắm, rồi dịch mất ngủ vẫn hoành hành, mỗi ngày, sáng ra, từ già chí trẻ đều ủ rũ  bơ phờ như thể như người sắp chết, uống đủ các loại thuốc nam thuốc bắc, uống đủ các loại cỏ cây… vẫn như không, rồi ông hương Quì, một hôm, sáng ra, đi nói với hết thảy người làng rằng đã đến lúc thần nhân xuất hiện, mới đầu là bước đi trên ngọn núi phía nam làng ta, ông nói với giọng chắc mẫm như đấy là sự thật không còn phải bàn cãi, còn bây giờ thì ở đâu, người làng hỏi, ông hương Quì nhìn trời đất một hồi lâu, rồi giảng: bây giờ thì ở trong tiếng hót của chim, trong tiếng nước chảy trên suối, trong tiếng cựa mình của đá, ở trong nỗi tức giận của cỏ cây và của những linh hồn tức tưởi bỡi sự đè nén của ngu xuẩn lịch sử, lắng như phù sa trăm năm nghìn năm mà hùng hậu như bước chân những người thuở trước, hú một tiếng vang động cả bờ hoang sử, đi giữa mang mang hồn sông núi mà dấu chân khắc muôn trùng ảo diệu,  khi đậu lại trên đỉnh thế gian thì hét lên  cho thõa hờn căm, dụi con mắt thấy giữa khởi thủy bao la cái hèn mạt len vào minh triết, mầm mống ngu tối  cũng tìm cách bước ra từ đây, biết để nương theo phù du cho đến lúc thấy đêm lấn sang ngày thì gõ lên lưng mặt trời, mọi thứ là có cả trong ánh nắng buổi ban mai, và cả trong thứ dằng dặc tối, biết để nương theo cuộc sinh tồn, khi nào thì ca hát, khi nào thì mài gươm, ông hương Quì đi nói với người làng về trí tuệ và cách cư xử của thần nhân, có kẻ  hiểu, bảo là sao giống những thứ đang có ở trong ta, ông hương Quì vui quá, cứ rống lên, thế đó …thế đó, có kẻ chưa hiểu, hỏi, thế thì bao giờ thế giới mới thanh bình, ông hương Quì nheo mắt: là tùy theo cách nghĩ và hành động của con người ở trên đầu đang đè nặng bao nhiêu là luật tắc của người và cả của trời,  ngày ngày ông hương Quì vẫn đi nói với người làng, rằng, đã đến lúc thần nhân xuất hiện, có lúc ông không nói, mà hét lên, đã đến lúc thần nhân xuất hiện, rõ chưa, có người hỏi làm sao để nhìn thấy thần nhân, ông hương Quì nheo mắt, xòe hai bàn tay ra, rồi đan vào nhau như thể vị pháp sư thời chưa có khoa học thực nghiệm bắt ấn để trò chuyện với trời, ông nói mà như ngâm: đậu lại trên đỉnh thế gian là kết tụ của thứ vật thể không tan trong hỗn mang, không chìm trong ngu tối,  thế gian nó là cái lò chế tạo không ngừng minh triết và ngu tối, vậy thì thần nhân ở vào chỗ nào trong khoảng hổ lốn có vẻ như không thấy lối ra, xin thưa, vào một sáng sớm mai trèo lên ngọn nắng, lắng nghe thử có tiếng hát nào cất lên trong dòng ký ức bầy đàn ở trong ta hay không,

 

 

[Chín]

có một người thuộc thế hệ cha tôi còn sót lại trong cộng đồng người làng tôi, ông tiến sĩ kiến, loài người là phải đi tới, chứ không thể đi chà lui, còn đi tới đâu, hay tới chỗ nào, thì còn phải chờ,  đó là lời ông nói với người làng, và cái tôn giáo ông đang đeo đuổi là để góp phần vào việc giúp cho con người không còn đi chà lui, giáo chủ là ông, tín đồ cũng là ông, có nghĩa, cái tôn giáo do ông sáng lập mới chỉ có mỗi một người theo là ông, cách hành đạo của ông quả chẳng giống chút nào với cách hành đạo trong các tôn giáo khác, cụ thể là ngày đêm ông ngồi chép tự truyện, nhưng người ta cũng không  chắc đấy là tự truyện, hay đấy cũng chỉ là những áng văn chương hư cấu, nhưng kinh văn ấy quả đã để lại trong lòng người đọc những cảm thức nóng bỏng về trần gian,

 

ta đã trải qua một trăm mười hai vương quốc của loài kiến, tranh luận với năm mươi mốt nhà sinh vật học trên thế giới về chế độ xã hội có vua chúa của loài kiến, và chỉ khi quay về ngôi làng bé nhỏ, nơi chôn nhau cắt rốn của mình, ta mới nhận ra rằng thế giới của loài kiến là một phúng dụ rất đẹp về thế giới con người, hay nói cách khác, nó, cái xã hội loài kiến đó là những ngụ ngôn vĩ đại đối với thế giới,

 

ông nói với mọi người, cứ thử đơn cử một câu trong sách tự truyện của giáo chủ, như câu vừa trích ở trên, thì cũng dễ hồ nghi là ông đã hư cấu ra mọi sự,  đúng là ông đã theo lũ kiến thật, vừa xong cái tiến sĩ sinh vật học là ông lao ngay vào công cuộc nghiên cứu về loài kiến, ở vùng quê trung du của ông là có  rất nhiều loài kiến (kiến lửa, kiến riệng, kiến hôi…) lắm lúc đã trở nên thứ tai họa trong gieo trồng, nhưng dưới sự đè ép của con người, thì đám kiến ở đây chẳng thể thể hiện hết khả năng sinh tồn của mình, có nghĩa, các quần cư của loài kiến ở đây chưa phải là đối tượng nghiên cứu khoa học của ông, có nghĩa, ông phải lên rừng, ngài tiến sĩ kiến (bấy giờ  người làng gọi ông thế) đã biền biệt trên rừng suốt mười mấy năm, nếu như lâu lâu không thấy bà vợ ông mang thai, người làng cũng dễ cho rằng ông đam mê khoa học đến nỗi quên cả nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi con người là phải làm cho loài giống mình luôn sinh sôi nẩy nở, đam mê nghiên cứu là vậy, rồi bỗng bỏ rừng, về nhà, treo biển, thiết lập một tôn giáo mà lúc đầu ai cũng thấy là có vẻ kỳ cục,

 

ta, kẻ từng đam mê những ngụ ngôn vĩ đại ở trên rừng, thì giờ đây tôn giáo của ta cũng là ngụ ngôn, ta từng sống trên rừng với những ngụ ngôn vĩ đại ấy, thì giờ đây ta cũng chỉ tin là chỉ ngụ ngôn mới khơi gợi được ở con người tình cảm luân thường,

 

ông nói với mọi người, cũng là hơi khó hiểu, nhưng chỉ trích đọc một chương nào đó trong sách tự truyện của giáo chủ, như chương sau đây, chẳng hạn, là sẽ rõ cả,

 

    …ta đến vương quốc thứ tám mươi của loài kiến thì gặp một sự cố quá lớn, đây là vương quốc của giống kiến càn có thân hình khá to, dường chỉ về đêm chúng mới sống trong hòa bình, còn ban ngày, ánh mặt trời vừa chiếu rọi trên rừng là ta đã thấy chúng cấu xé nhau, có xác một con hổ đang thối rữa ven một suối nước, khối thực phẩm to lớn này là nguyên nhân của chiến tranh, ta lên rừng là để khảo cứu về loài kiến, nên đâu có thời gìơ để hiểu vì sao con hổ chết, bấy giờ có hai sự kiện làm cho ta phải nghĩ ngợi, một là, khi một loài  bé nhỏ như loài kiến lại ăn thịt một loài to lớn như loài hổ, và hai là, khi nguồn thực phẩm quá lớn thì cuộc chiến tranh giành nguồn thực phẩm ấy sẽ kéo dài ra, chúng đánh nhau suốt hơn tháng trời, cứ chia thành từng hai nhóm một, từng hai phe một, mà đánh nhau, tất nhiên là ta phải ở lại đó trong suốt thời gian chúng đánh nhau, ta đã khóc, nước mắt không phải là nhiều, nhưng vì đứng ở lòng con suối mà khóc, nên ta tin nước mắt của ta sẽ hòa vào biển cả, bỡi sông suối nào lại không đổ về biển cả, nhưng nói vì thấy lũ kiến chết nhiều quá mà khóc, là nói chưa thật, ta biết là bấy giờ, khi thấy lũ kiến chết nhiều quá, thì trí tưởng của ta lại hướng về loài người, cũng giống lũ kiến ở nơi này thôi, các cuộc chém giết nhau của loài người cũng là đồng loại chém giết nhau thôi, lũ kiến không có lời nói, im lặng đánh nhau, im lặng chết, nên không thể nói  chuyện luân thường trong thế giới của chúng, nhưng loài người, sau khi chém giết nhau, kẻ thắng thì tự ngợi ca mình, kẻ thua còn sống sót thì dùng hết thảy những lời lẽ có thể dùng được để tô điểm cho lòng thù hận của mình, cho nên, nếu không nói đến chuyện luân thường, thì cơ hồ loài người tự hủy diệt mìn, nhưng ai là kẻ nắm giữ luân thường,

  …ta đến vương quốc thứ tám mươi hai của loài kiến thì gặp cuộc va chạm giữa con người và kiến, lũ kiến vàng quả là có đầu óc kiến trúc rất lớn, là kiến trúc sư của thời hiện đại thì anh cứ thử phác thảo thứ nơi ăn chốn ở cho cái công xã loài kiến đến hàng nghìn con ấy thử coi, nhà ở của lũ kiến vàng là thứ công trình có đủ tất cả các hạng mục cho một cuộc tồn sinh, nó, cái tổ kiến ấy, là nơi hội họp của bầy đàn, là đồn lũy để cố thủ trước kẻ địch, là chiếc giường trong việc ái ân, chiếc nôi cho một thế hệ mới chào đời… những phút đầu tiên đặt chân đến vương quốc ấy, ta cứ mê mẩn đứng nhìn những công trình kiến trúc theo lối treo ấy, vào một buổi sáng núi rừng có vẻ đầy cảm hứng, lúc lũ kiến vàng đang tụ tập ở sân ngôi nhà chung, sửa sọan bay đi tìm thực phẩm cho kế hoạch dự trử của mình, thì đám người ấy xông tới, ta nói là chớ nên làm hại những sinh vật nhỏ bé mà có đầu óc kiến trúc như loài kiến, bọn họ, cả thảy là năm người đàn ông lực lưỡng, tưởng ta cũng là dân ăn kiến, hãy nói đi, là ông đứng về phía con người hay phía lũ kiến, tất nhiên ta hiểu, nếu nói đứng về phía lũ kiến, lập tức ta bị ăn đòn, nhưng rồi ta cũng bị ăn đòn, dẫu chưa nói là đứng về phía nào, như vậy là ta phải lặng lẽ ra đi, vừa bước, ta vừa ngoảnh nhìn những ngôi nhà treo dày đặt trên các cành cây, thấy lửa cháy, và đám người chuyên ăn kiến thì lần lượt dứt những cái tổ ấy xuống khỏi các cành cây, ăn kiến là thuật ngữ để chỉ những người chuyên đi đốt tổ kiến vàng trên rừng để thu lấy đám kiến con chưa mọc cánh và thứ trứng sắp nở con về làm thức ăn cho con người, ta cũng không biết có nên đem thuật ngữ luân thường ra nói ở trường hợp này hay không,

 …   phải nói là trời đất chí công với ta khi ta đến vương quốc của loài kiến vô cùng bé nhỏ đó, ở nơi này ta kết thúc được một công cuộc nghiên cứu, và mở ra một công cuộc nghiên cứu khác, riệng, là tên loài người dành riêng cho loài kiến vô cùng bé nhỏ đó, một vương quốc của kiến và hoa rừng, hay nói theo nghiên cứu khoa học thì nơi cư trú của loài kiến riệng là những rừng cây thấp và có nhiều cây có hoa, thức ăn chính của chúng là mật hoa, cứ từng đàn nhỏ leo lên nằm ở những khóm hoa rừng, chẳng vội vã gì trong việc ăn uống của mình, cuộc sống của loài kiến riệng là một cuộc nhẩn nha, thời gian như chẳng là cái quái gì đối với bọn chúng, hút mật hoa xong thì kéo đến nằm hoặc là trong một hốc cây, hoặc là nơi một mô đất, chổ ở như chẳng có nghĩa lý quái gì đối với bọn chúng, và dưới mắt con người thì bọn chúng, cái lũ kiến chuyên hút mật hoa đó, là xúc phạm đến vẻ đẹp của các loài hoa, nhưng nữ thần của các loài hoa đã giảng cho ta nghe về chuyện này, vào một sáng mùa xuân (ta đến vương quốc của loài kiến ấy là vào mùa xuân), ta đang nhìn đám kiến riệng hút mật ở một khóm hoa bần bân ( hoa bần bân là loài hoa thơm nhất ở vùng núi rừng này), và đang cảm thấy bực bội trong lòng, thì nữ thần của các loài hoa từ trong khóm hoa ấy bước ra, em chào ông, nàng chào hỏi ta xong thì vẫy tay về phía lũ kiến, vẻ đẹp của nàng như làm cho đầu óc ta trở nên thông tuệ, có phải là lũ kiến đã làm xô lệch đường nét của hoa, tức chạm đến chỗ tự tại trong thế giới  các thần, ta đã hỏi được một câu, mà chưa chắc trước đó đã nghĩ ra, nàng trẻ hơn ta nhiều lắm, nhưng sự thông tuệ trong ta mách bảo ta rằng  trong thế giới các thần là không có tuổi tác, nàng bảo nghĩ như thế là nghĩ theo cách của con người, còn trong thế giới các thần thì việc lũ kiến hút mật hoa là thuộc về một trong những nét của tồn tại, em đang nói về các mối quan hệ trong thế giới các thần, ta bắt đầu gọi nàng bằng tiếng em thân thiết, thưa phải, nàng đáp, và giảng giải thêm rằng ở thế gian gọi các mối quan hệ ấy là luân thường, thì trong thế giới các thần gọi là những nét của tồn tại, nhưng ai là kẻ nắm giữ luân thường trong thế giới các thần, ta liền hỏi, nàng bảo, ngay cả thần của các thần, tức là trời, cũng chẳng thể nắm giữ luân thường, mà vẻ đẹp của một áng mây trôi, tiếng nhạc của gió, nét hào hoa của một vầng nhật nguyệt, hay một vũ điệu của một quần tiên, những thứ như thế là đã gợi nên những cảm thức về một trật tự của tồn tại, có nghĩa chỉ có những khơi gợi về trật tự của tồn tại, chứ chẳng ai có thể nắm giữ được nó, ta xen vào hỏi, nàng mỉm cười với ta thay cho lời đáp, rồi theo cung cách các thần, nàng hôn lên vầng trán ta, để chia tay ta, còn ta thì theo cung cách con người, ta hôn lên môi nàng, để thay lời từ biệt, phải, chẳng có ai cả, là có thể nắm giữ luân thường, ngay cả nguyên thủ của các thần, ngay cả nguyên thủ của loài người, ta giữ nguyên niềm hứng khởi, quay trở về nhà, treo biển, lập nên tôn giáo ngụ ngôn của ta, mà tôn giáo của  ta cũng chỉ là thử đề xuất với trần gian,

 

 

[Mười]

còn có một người nữa thuộc thế hệ cha tôi cũng coi như còn sót lại trong cộng đồng người làng tôi, ông Chảnh, điều buồn cười là  ông lão sống đến một trăm lẻ năm tuổi trong khi con cháu ông đều chết cả, thôi thì bà vợ ông chết ở tuổi năm mươi cũng được đi, trong khi đó thì con cháu ông gòm con trai, con gái, con dâu, con rể, cháu nội, cháu ngoại, đứa sống lâu nhất chỉ bốn mươi lăm năm, đứa sống ít nhất chỉ bốn tháng, thôi thì súng đạn chiến tranh cướp hết mấy đứa con trai và con rể ông cũng được đi, đằng này đứa cháu ngoại của ông mới bốn tháng tuổi đi tiêm vắc xin phòng dịch sốt xuất huyết người ta tiêm lộn thuốc cũng chết đi, đấy là mưu mô của tạo hóa ông à, ông nói,  mưu mô gì bác, tôi hỏi, thì vậy là mưu mô chứ còn gì, để cho một lão già như cái cây một mình đứng giữa trời, ông giải thích, việc ông nhìn thấy cái mưu mô của tạo hóa là một trong rất nhiều những nghĩ ngợi về thế giới rất riêng của ông, made in bác Chảnh, chảnh ở đây không phải làm ra vẻ ta đây, phách lối, mà là do hồi mới thống nhất đất nước mấy chục năm trước có một người Việt thuộc cộng đồng người làng tôi đã coi thường chuyện dấu giọng của tiếng Việt, Chạnh hay Chảnh cũng vậy thôi bác à, người làm hộ tịch của làng nói lúc ông đến trụ sở làng khiếu nại về việc đã ghi sai tên ông trên thẻ căn cước, ông là Chạnh, em trai ông là Lòng, cha ông hồi đó buồn đời sao đó đã đặt tên cho hai đứa con trai là Chạnh /Lòng, gọi tôi là Chạnh hay Chảnh thì chẳng chết ai, nhưng nếu gọi chính quyền cách mạng là chính quyền cách mảng thì chết mẹ thiên hạ, ông nói, hồi đó, tuy chính quyền cách mạng làm sai tên ông trong sổ bộ nhưng ông vẫn vui vẻ, cho đến năm thứ một trăm lẻ năm trên đời thì ông bỏ những niềm vui đồng nội, niềm vui với làng xóm, niềm vui với sách vở [ông Chảnh từng là thầy giáo dạy học thời  thuộc Tây, tiếng Tây giỏi, đọc rộng, hiểu nhiều, lại biết lái xe hơi nên thời tổng thống Diệm tay quận trưởng sở tại cũng thuộc cộng đồng người làng tôi đã chọn ông làm tài xế riêng] ông bỏ những niềm vui cũ để chuyển sang niềm vui mới: ngao du thế giới, nhưng không phải đi bằng chân đâu nhé, mà đi bằng đầu, đi bằng nghĩ ngợi, một tấm bản đồ thế giới [cỡ lớn] một chiếc kính lúp, ngày ngày ông trải tấm bản đồ lên sàn nhà, đeo kính tuổi vào, rồi xoãi người xuống cạnh tấm bản đồ, rồi ngao du thế giới qua chiếc kính lúp, bấy giờ tôi có cái thú  là  sang nhà ông để cùng chu du thế giới với ông, chúng ta đi đâu bây giờ, ông giáo nhỉ, ông Chảnh vẫn gọi tôi như thế như thể để thể hiện sự quí trọng thế hệ thầy dạy học sau ông vì ông cũng như người làng cứ xem tôi là ông gíao dạy học,  voa là [voir là] ông nhìn thấy gì không, ông hỏi, rốt cuộc tôi cũng bập bẹ được tiếng Tây, tấm bản đồ thế giới được vẽ với tỉ lệ phần nghìn, nên các tọa độ ông Chảnh dừng kính lúp lại để thuyết minh chỉ có ông mới biết rõ,  voa là, đây là rừng taiga, ông biết không, bao giờ rừng taiga cũng để lại trong cảm nghĩ của ta một chút lạnh lẽo, một chút u buồn, một cuộc tồn sinh lui tới theo cuộc thoái tiến của giá băng thì không u buồn là gì, nếu không nói là quá đỗi  hiện sinh theo nghĩa là hoàn toàn xa lạ với vĩnh hằng, ông nói trong niềm cảm hứng nghiêm cẩn, tôi không biết đích xác nơi ông nói là nơi nào, nhưng rừng taiga là thuộc phương bắc lạnh lẽo, và cả cộng đồng người làng tôi ai cũng biết ông Chảnh chưa bao giờ đi tới phương bắc [hồi lái xe cho tay quận trưởng sở tại, nhiều lắm cũng chỉ đi hết miền nam đất nước tôi] kiến thức sách vở về thế giới rót vào ký ức nằm chồng chất ở đó rồi nhờ tư duy tái lập các hình ảnh, tới cái tuổi một trăm lẻ năm của ông dường như thế giới được thu nhỏ đến mức ông có thể nhìn thấy rõ qua ký ức, và nói ra được bằng lời, đưa chiếc kính lúp lên các nơi chốn trên tấm bản đồ thế giới chẳng qua là cách đánh động ký ức, dường như với vốn liếng sách vở đông tây kim cổ và với sự trải nghiệm cuộc sống, ông Chảnh có thể mô tả thế giới theo cách rất riêng của ông, cái thế giới quan hơi tàn nhẫn một chút, nhưng là rất thật, có lẽ là do cuộc sống đã làm cho ông thành ra như thế, chỉ mỗi chuyện một đứa học trò cũ bắt ông làm tài xế xe cho hắn cũng làm cho ông thành ra như thế, chỉ mỗi chuyện đứa con dâu ông nhìn thấy cách mạng đào hầm bí mật trong làng nên phải chết  cũng đủ làm cho ông thành ra như thế, chưa hết, đến một nghìn lẻ một chuyện đại loại thế, cái thế giới đang bày ra trước ông là một thứ hổ lốn, có quá nhiều thứ trái khuấy, nếu không nói là có quá nhiều thứ bậy bạ, ông không thể không nghĩ ngợi về nó, ông không thể không nói về nó, với ông, thế giới là cuộc phê phán bất tận, voa là, ông biết không, đi quá rừng taiga một chút là chốn điện các cổ kính, giọng ông Chảnh chuyển sang u uất, tro than, rút…rút …ông đặt kính lúp lên bản đồ, và bỗng kêu lên, dựa theo vị trí của kính lúp trên bản đồ, và tiếng kêu thảng thốt của ông, tôi lờ mờ nghĩ về  nước Nga, voa là, ông biết không, vua, rồi không vua, rồi vua, có một thằng cha làm vua không đặt tay lên cuốn Kinh Thánh thề thốt như các ông vua trước đó, mà đặt tay lên bản hiến pháp do thằng cha ấy sửa đi sửa lại để thằng cha ấy được làm vua suốt đời, một thằng cha vua hèn mạt nhất lịch sử, ông ấy nói, tôi cảm thấy thứ không khí buồn bã đang tràn ngập ngôi nhà  vách gạch mái tôn nằm ở đầu khu vườn có nhiều bóng dừa, tiếp theo sau ngôi nhà này là tám ngôi nhà vách gạch mái tôn khác của tám đứa con ông Chảnh [gòm cả nhà của con trai, con gái, con dâu, con rể] tôi cứ thấy rưng rưng khi nghĩ đến lúc ông Chảnh chết thì bộ tộc họ Trần trong cồng đồng người làng tôi coi như bị xóa sổ, voa là, ông nhìn thấy không, ông Chảnh bỗng nhích kính lúp lên, cười to, có hai thằng cha đang hát xiếc đấy, một thằng cha cao to nhưng cái miệng thì quá nhỏ như thể không thể đút vào được một quả chuối với một thằng cha thì miệng như còn hôi sữa, bọn họ đang dắt tay nhau đi trên một thành phố Biển như hai kẻ thù giả làm thân thiện nhau, giả làm đồng tâm hiệp ý nhau, một người nói sẽ không tiếp tục làm chuyện này nữa, một người nói sẽ không tiếp tục làm chuyện kia nữa, chuyện gì vậy nhỉ, ai mà biết bọn họ nói có thật lòng không, các nguyên thủ quốc gia thời nay có vẻ siêu hình vậy đấy, ông Chảnh nói, và nhổ một bãi nước bọt vào khoảng không trước mặt, trước khi nhổ nước bọt là ông đã gấp tấm bản đồ lại, giờ lại mở ra,  rà kính lúp lên khắp các lục địa Âu Á Phi Mỹ, rồi bỗng sa sầm  mặt, voa là, ông có nhìn thấy gì không, ông Chảnh đặt kính lúp lên một vùng đất trên bản đồ và nói, tôi chẳng biết đấy là nơi nào, bỡi chiếc kính lúp đang đè lên một khoảnh rộng lớn trên tấm bản đồ, là chúng đang mang đất đai tổ tiên chúng để lại đi cống nộp đấy, cái xứ sở này sắp tàn rồi ông biết không, sắp tàn rồi…ông Chảnh hét lên, giận dữ, rồi nước mắt chảy dài, tổ tiên xưa có triều đại nào là không chống ngoại xâm đâu, văn hiến của xứ sở là máu và nước mắt của tổ tiên, ông biết không,  ông Chảnh lại hét lên, giận dữ nhìn tôi, tôi hoảng lắm, nhưng chẳng biết nói gì, làm gì, hỏi gì…bây giờ chừ, ta biết đi đâu về đâu, bấy giờ trời cũng sắp tối, lợi dụng lúc ông Chảnh đứng lên vung tay múa theo điệu múa gươm, và hát, tôi lẻn ra cửa sau, chạy một mạch về nhà, đêm ấy tôi thức trắng với hình ảnh ông lão sống hơn trăm năm trong một thế giới như là đối tượng của phê phán, vâng, thế giới là cuộc phê phán bất tận, lại sợ ông Chảnh có mệnh hệ nào, hôm sau, mới tờ mờ sáng tôi đã gọi cửa nhà ông, ông Chảnh ra mở cửa, nhìn tôi: ông ấy không có ở nhà, ông nói, và đóng sầm cửa, chỉ mấy hôm sau thì ông ấy thực sự không có ở nhà, để chuẩn bị cho việc đưa ông Chảnh về nơi an nghỉ cuối cùng, tôi viết bài hát của ông lên cờ phướng: bây giờ chừ, ta biết đi đâu về đâu, 

 

 

[Mười Một] 

cái chết của ông Chảnh lại để lại trong nghĩ ngợi của tôi một khoảnh nhỏ giống như thứ ghi chú bên lề, niềm thao thức bỗng dấy lên trong cảnh trí tiêu vong mà hoành tráng, đủ mặt cả, ông Thí đương kiêm trưởng làng, ông Khán nguyên trưởng làng, hầu như từ già đến trẻ đều có mặt ở cái cơ ngơi đang trên đường trở thành di tích của một bộ tộc người đương đại, họ Trần [Chảnh] có mặt tự buổi đầu lập đất lập làng, kiến thức ấy sẵn có trong các thế hệ người làng tôi cùng với nhiều hiểu biết về dòng họ  ấy cắt nghĩa tại sao buổi sáng ông Chảnh vừa tắt thở thì người làng, từ già chí trẻ, đều có mặt ở nơi người cuối cùng của một dòng họ ra đi, những người đến lo đám tang ông Chảnh không có ai họ Trần, chỉ thuộc cộng đồng nhân loại tọa lạc dưới chân dãy núi tôi yêu, mọi người đến đấy và hành động theo kiểu bộ lạc nguyên thủy, tức, không có yếu tố nhà nước, không có ai chỉ huy cả, chỉ là sự tự phát, đám trai tráng khỏe chân tay lãnh việc ra gò thổ mộ của làng đào huyệt mộ và ra bờ rào nhà ông Chảnh chặt tre làm đòn khiêng áo quan, làm lạt buộc áo quan, không đi mua áo quan vì mấy tay thợ mộc gạo cội trong làng lãnh việc hạ cây mít lâu niên trong vườn nhà ông Chảnh, xẻ ván,  đóng quan tài, các bà mẹ bà chị thì, người mang gạo, mang rau, người mang  trứng, mang thịt đến để làm cơm cúng ông Chảnh và khoản đãi những người ở xa đến viếng, cái ban nhạc đồng quê của đám con trai con gái trong làng cũng may là ngoài pop, rok, rap..chúng cũng biết nhạc dân tộc, còn trẻ, nhưng tay đờn tay trống bọn chúng cũng làm ra được thứ âm nhạc rặt người mình, trên con đường đến chỗ trú ngụ cuối cùng, ông Chảnh không ngồi trên chiếc xe cộ kéo bằng bò như nhiều người khác trong làng chết, mà do lũ trai tráng trong làng khiêng, cái cách ra đi như một thứ quà tặng  đặc biệt của người làng, quà tặng cho một người cuối cùng của một dòng họ đã sống hơn trăm tuổi, buồn, mà hoành tráng, cờ xí rợp trời, trống chiêng đầy trời, bấy giờ tôi cứ nghĩ đến cảnh ra đi rất hẩm hiu của bà Hoãnh, mẹ anh Bốn Chẽn, hồi mới thống nhất đất nước, là do ngọn gió cách mạng lúc bấy giờ nó thổi qua ông Khán trưởng làng mạnh quá, nhưng có lẽ là do cái năng khiếu trị nước của ông, tức, cái tài làm kẻ đứng đầu bầy đàn của ông, khi ngọn gió mới ấy thổi qua ông Khán là ông ấy muốn mọi thứ đều phải mới, ăn ngủ đi đứng phải mới, đám cưới đám tang phải mới, cách nói năng chuyện trò phải mới, ngay cái giọng nói vốn hơi chậm rãi của ông cũng không còn nữa ngay sau buổi ông nhậm chức trưởng làng, phải phá hết, đốt hết, ông Khán hốt nói, hốt gào, thì cứ cho là ngọn gió mới thổi qua người ông mạnh quá cứ làm dấy lên trong ông lòng căm thù cái cũ, ông Khán chủ trương cái gì thuộc chế độ cũ là phải phá hết, đốt hết, vào một đêm mùa hạ, ngay sau khi thống nhất đất nước, ông Khán phóng hỏa đốt ngôi miếu thờ thần làng trên đồng làng tôi, ngôi miếu duy nhất  còn sót lại sau bao nhiêu binh lửa, ngọn lửa đốt đền cất lên giữa đồng làng trong đêm tháng tư như lời tuyên bố hay đúng hơn là sự khẳng định cái thế giới quan vô cùng mới mẻ của vị trưởng làng, lúc bấy giờ, nhìn ngọn lửa đốt đền cất lên trong đêm, tôi cứ có ý nghĩ hơi lệch lạc: hay là ông ấy căm thù kẻ tài giỏi hơn ông là thần làng, tuy được cử làm trưởng làng nhưng ông cũng chỉ mới biết đọc biết viết chữ quốc ngữ, rồi ông căm thù luôn cái kiểu khiêng người chết đi chôn phải có cờ trống, cái kiểu coi như trên đầu ông có một vị thần coi sóc chuyện chết chóc ở trần gian, dẹp hết, ông quát, khi người làng cứ tưởng xưa sao nay vậy, đã mang cờ trống làng sắm sẵn đến đám tang bà Hoãnh, mẹ anh Bốn Chẽn, cha mẹ nào còn mang trong mình tư tưởng chết là phải có cờ trống tôi báo lên trên cho đi cải tạo tuốt hết, ông hét, mẹ anh Bốn Chẽn lại chết vào lúc lòng căm thù cái cũ đang sôi sục trong ông Khán, người làng âm thầm đưa bà lão ra gò thổ mộ của làng trong nỗi lo sợ cũng mới mẻ như ngọn gió mới đang thổi qua làng, trong đám tang ông Chảnh, tôi thấy anh Bốn Chẽn ngồi chẻ lạt mà mắt cứ nhìn về phía ông Khán cựu trưởng làng, cái nhìn có vẻ chẳng bình thường chút nào, ông Khán thì chẳng hề biết con trai người đàn bà nạn nhân của lòng căm thù của ông đang nhìn ông với ánh mắt căm tức, bây giờ việc đưa ma vui vẻ hơn hồi mới thống nhất đất nước ông hả, ông Khán nói với ông Thí đương kiêm trưởng làng, có vẻ như đã trở lại với cái chất giọng chậm rãi của ông, và tôi chẳng nghe lời bình nào của ông THí, đương kiêm trưởng làng, khiêng quan tài ông Chảnh toàn những người trẻ tuổi, trừ anh Bốn Chẽn, không biết anh làm thế để đỡ tủi thân khi nghĩ đến việc hồi ấy đi chôn mẹ anh như đi chôn một con bò cày khi già chết, trong cái quang cảnh hoành tráng, người làng không thiếu ai, cờ xí chiêng trống rợp trời, tôi cứ nghĩ đến anh Bốn Chẽn và cái chết của mẹ anh, ngày trước thằng nào trong đám tang mẹ tao bắt dẹp cờ dẹp trống, giờ đám tang ông Chảnh thằng nào đi dưới cờ dưới trống, tôi thấy anh Bốn Chẽn vừa khiêng quan tài vừa lầu bầu thế,

 

[Mười Hai]

chết không chỉ tiêu vong mà còn mở ra những vấn nạn cho hiện hữu loài người, nàng đã viết cho tôi như thế khi mặt đất cứ nóng lên với những cái chết ít giống với những cái chết thuở trước, anh biết không, ngày ngày em vẫn bước đi giữa thứ sử văn em cố đọc đi đọc lại nhiều lần để chia xẻ: phẫn nộ hay yêu thương, nhưng lần này thì em đã bất ngờ lạc vào chốn lạ, một thứ lịch sử kỳ dị, giống như một thứ con bệnh đang sống cuộc sống thực vật, lần này thì nàng trò chuyện với tôi về một nền văn hóa đang trên đường tiêu vong, anh biết không, em cứ muốn ví cuộc tiêu vong ấy, em cứ muốn ví cái chết từ từ ấy như người kỵ sĩ đang mang trong mình thứ ký ức đầy thương tích,

 

…ngươi biết không, bây giờ là chỉ có một con đường, một lối đi, khi nghe nền văn hóa đang nuôi dưỡng mình nói thế, người kỵ sĩ vội vã quất ngựa chạy về phía khu rừng nơi chàng đã sinh ra và lớn lên, chàng nhớ khi còn nằm nôi đã nghe mẹ kể câu chuyện về loài ong tàn nhẫn, đang mùa xuân, hoa nở trên những con đường vào rừng, hãy để cho ta mang mật ngọt của em đi xây những lâu đài đẹp đẽ cho em, lũ ong đang thuyết phục các loài hoa bằng những lời giả dối, rồi chẳng cần biết các loài hoa có ưng thuận hay không, lũ ong khốn kiếp từng bầy sà xuống cướp hết mật ngọt mang đi, tự buổi nằm nôi chàng đã hiểu ra thế nào là kẻ cướp, vậy mà giờ đây, người ta đang in thành sử sách cho con em xứ sở chàng học, rằng, giờ xứ sở chàng chỉ có một con đường băng qua hết thảy các xử sở khác, chẳng có xứ sở nào trên mặt đất là không thuộc con đường của xứ sở chàng đang đi,  này thằng người đầy thương tích có muốn nhìn lại gương mặt cha ông mình hay không, ông cụ canh giữ khu rừng cũ nói với giọng nói của dịch chuyển có cả cái mộc mạc lẫn trác tuyệt của ngôn ngữ, con ngựa nòi phương đông quị xuống, hộc ra thứ máu đen ngòm, người kỵ sĩ cũng quị xuống, chàng chợt nhìn thấy hình dạng mình ở trong máu, cũng vào ngày này đến mấy nghìn người trai trẻ gục xuống trong máu của mình, chàng cứ nằm yên trong khoảnh máu chảy ra từ thân thể con ngựa thân yêu của chàng và nghe như có ai đó nhắc nhở chàng…vào ngày ấy tháng ấy ở chốn ấy, trời đất, lũ quỉ thời đại đã cắn nát trái tim của cha ta, của mẹ ta, của anh em bè bạn ta, người kỵ sĩ bỗng đứng lên, rũ hết máu me, hét lớn, cuộc hành trình của con người thời đại đang bày ra trước mắt ông cụ canh giữ khu rừng cũ, là ngươi đã nhìn thấy gương mặt cha ông ngươi, he he, ông cụ vui cười ra mặt, rồi cả người ngựa cũng lấy lại được sự bình tĩnh, nhưng cũng chỉ là sự cố gắng trong thứ đời sống thực vật, rồi khi ông cụ bắt đầu vẽ những vạch nhỏ lên mặt đất thì cả người ngựa đều quì, xin ông…đừng, người kỵ sĩ đang rơi vào nỗi sợ hãi bỡi đang có sự hiểu lầm về việc làm của ông cụ canh giữ khu rừng cũ, xin ông đừng bắt chúng tôi phải chết, chàng nói, gần như không thành tiếng, ông cụ lặng lẽ thiết lập thứ triết học dịch chuyển lên mặt đất, một vạch liền, rồi một vạch đứt, đấy là đạo, nhà ngươi nhớ chưa, ông cụ hỏi, mỉm cười nhìn thầy trò người kỵ sĩ, rồi bỗng ngửa mặt lên bầu trời trên đầu mình, nói, như thể phác thảo cho một cái chết, hay phác thảo cho một nỗi kinh khiếp đang phủ lên xứ sở mình, một con quỉ, một con quỉ đầy nanh vuốt đang len vào loài giống con người, ta cũng không biết làm sao một con quỉ lại len vào  được một loài giống có chữ viết, có tư duy, có lịch sử, một con quỉ đang dẫm lên minh triết của tổ tiên, ngươi biết chưa, đến lượt ông cụ canh giữ khu rừng cũ hét lên, ông cụ cứ hét lên, rồi ngã xuống chết,

 

em đi giữa thứ lịch sử như thể chỉ có thể diễn đạt bằng thứ chữ tượng hình, hay bằng thứ chữ tượng thanh, hay bằng thứ chữ hình nêm, hay thậm chí bằng cách thắt nút giây như thời tiền mông muội, bỡi những gì đang xảy ra ở đây là thuộc về phạm trù man di, một nghìn lần man di, và dường như chỉ những thứ cổ tự ấy mới có thể diễn đạt được những thứ như thế, anh hãy hình dung, một xứ sở, trẻ em vừa biết đọc biết viết là bắt đầu học thứ sử ký chúng chép theo lòng tham của một tên đế quốc luôn thèm khát đất đai của người khác, một thứ đế quốc cũ rích tồn tại tự những thế kỷ mươi bảy, mười tám, hay có thêm thắc chút mánh lới thế kỷ mười chín thường hay được gọi là thế kỷ thực dân mới, anh cứ thử tưởng tượng, một xứ sở người ta bắt mọi người nghe cùng một cách nghe, nhìn cùng một cách nhìn, ngửi cùng một cách ngửi, đôi khi là mùi thối của đám chuột ăn phải bã đang thối rữa trên ruộng đồng nhưng vì lý do nào đó trong giao hảo chẳng hạn khi người đứng đầu xứ sở đưa khách đi tham quan đồng ruộng phải rán coi mùi thối của đám chuột chết không phải là mùi thối, một thứ hương vị đất đai của đất nước chúng tôi, thưa quí quốc, người đứng đầu xứ sở nói với một vị khách nguyên thủ quốc gia, lập tức, những kẻ tùy tùng, và cả mọi người trong xứ sở đều phải xem đấy là một thứ hương vị đất đai, anh thử tưởng tượng, giữa thời con người mơ giấc mơ bảo tồn loài giống mình bằng cách vừa củng cố hành tinh đang sống vừa tìm kiếm một hành tình khác bền vững hơn thì lại có kẻ đứng đầu một xứ sở mơ giấc mơ biến hết thảy người của xứ sở mình thành những tên lính nô lệ chuẩn bị cho cuộc đánh chiếm thế giới,

.

thư nàng viết cho tôi lần này làm tôi cứ nghĩ đến con Monotaun của hòn đảo Crete thời cổ đại,

 

[Mười Ba]

cha tôi đã chép trong văn tập Tan Rã của ông: Trung Cộng lại bị Liên Hiệp Quốc gạt bỏ, không cho gia nhập: 12 phiếu trắng, 42 phiếu thuận, 56 phiếu chống,  tại Ấn Độ, trụ sở của đảng công sản ở New Delhi đã bị đập phá, quân đội được rút từ phía biên giới Ấn-Hồi, để chuyển lên Hy Mã Lạp Sơn chống Trung Cộng, U Than vẫn chưa thuyết phục được Fidel Castro ưng thuận cho tháo gỡ các giàn hỏa tiển, Mikoyan, phó thủ tướng Nga, sang Cu Ba khuyến dụ Fidel Castro, hay là con người sắp đối diện với cuộc tiêu vong,

 

[Mười Bốn] 

sự phát triển hay là tàn lụi của một cộng đồng người cũng chỉ là cách biểu lộ của tồn tại, cái chớp mắt của thời gian, tôi lại nhớ về một cái chết, một cuộc tiêu vong thể hiện sự phân rã trầm trọng của cộng đồng người làng tôi, cái chết của Lài, con chim ruộng của làng tôi, trong văn tập Tan Rã của cha tôi thì cộng đồng người nhỏ bé nằm ngay dưới chân dãy núi tôi yêu, làng tôi, được xem như một thân thể, rồi từ thế hệ này sang thế hệ khác, đêm nghe tiếng gào của gió núi là nghe thấy dặn dò của người mở đất: một người chết đi coi như làng mất đi cánh tay, hay thậm chí là mất đi đôi chân, ngay từ lúc có chút vốn liếng kiến thức tôi đã đọc được tình cảm bầy đàn ngọc bích kim cương ấy trong văn tập của cha tôi, có vẻ như cảnh báo về sự tàn lụi nào đó, tôi canh cánh trong lòng cái thế giới quan như cố giấu tiếng thở dài ấy cho đến khi xảy ra cái chết của Lài, cái chết của con chim ruộng làng tôi, con chim ruộng là cách gọi làng Dút trên dãy núi phía nam làng tôi đã tặng Lài, từ buổi ấu thơ Lài đã theo cha mẹ, ông bà Kỉnh, đi buôn thượng, cày ruộng và buôn thượng, nghề nghiệp chính của cha mẹ Lài, ai về nhắn với nậu nguồn…buổi theo cha mẹ lên làng Dút, Lài luôn miệng hát bài hát nàng không hề biết ý nghĩa nó là gì, người làng Dút cũng chẳng hiểu ý nghĩa nó là gì, với người làng Dút, Lài như một con chim bé nhỏ từ đồng ruộng bay lên núi, cái cộng đồng người trên dãy núi phía nam làng tôi vẫn nuôi dưỡng hình ảnh một con chim ruộng bé nhỏ, còn một chàng trai nữa ở cộng đồng người làng tôi thì nuôi dưỡng một cuộc tình cho đến cuối đời, có lúc nào ông đã nghĩ đến một người con gái khác sẽ bước vào cuộc đời mình, rất nhiều lần tôi thử hỏi ông ấy, lần nào ông ấy cũng chỉ cười và im lặng, tất cả những thứ ấy, cười và im lặng, đã cho tôi biết có một chàng trai đã nuôi dưỡng cuộc tình cho đến cuối đời, ở tuổi mười tám, buổi ấy, Lài  đã nhìn thấy một cách rõ ràng, rằng, chàng trai ấy đã yêu mình, bấy giờ nàng đã thay ông bà Kỉnh đã già yếu, làm công việc mang cá mắm lên làng Dút để đổi lấy những mật ong rừng, măng rừng, bấy giờ, thỉnh thoảng nàng cũng hát, ai về nhắn với nậu nguồn…nhưng không phải hát như buổi ấu thơ, mà như một cách thức để nói với người khác, rằng, nàng đang yêu, tôi cứ nghĩ tình yêu ấy nó cháy bỏng thế nào ấy để cho ông ấy có đủ sức nuôi dưỡng nó cho đến cuối đời, ngày nay con chim ruộng làng tôi không còn, Lài không còn, ông ấy cũng đã đến tuổi ngoài tám mươi, nhưng tôi thường bắt gặp ông trong bộ dạng thẩn thờ  nhìn về một góc nhân gian nào đó, chắc là chốn cũ còn có đủ hai người, thuở hai người yêu nhau thì mọi thứ trên đất nước tôi đã sẵn có rồi, một chính phủ quốc gia ở dưới đồng bằng, và một mặt trận giải phóng ở trên rừng, tôi nói cho nó có vẻ hình tượng một chút, đấy là những thực thể lịch sử nhưng hầu như chẳng đọng lại bao nhiêu, nếu không nói là không đọng lại chút nào trong nghĩ ngợi của chàng trai và cô gái nhà nghèo trong làng chữ nghĩa cũng chỉ đủ viết những bức thư tình ít chữ [mai em đi làng Dút ở lại ba hôm mới về anh à, hoặc, mai thì anh bắt đầu cày vỡ ruộng cho nhà ông hương kiểm Dư, em à] bấy giờ thì những thực thể lịch sử  va chạm nhau khốc liệt, chiến tranh, và những con người cùng chung tổ quốc ngã xuống hàng loạt, nhưng chuyện chết chóc là xảy ra những nơi khác, ở tận ngoài ấy, hay, ở tận trong ấy, cách nói về những cuộc đánh nhau ngày ấy, ở làng tôi, cái cộng đồng người nhỏ bé dưới chân dãy núi tôi yêu, chỉ có chuyện con trai tới tuổi thành nhân phải đi lính cho chính phủ quốc gia, hoặc là lên rừng theo mặt trận giải phóng, hai người đã yêu nhau giữa khúc sử cần phải chú thích rất nhiều đối với những nhà chép sử, nhưng với bọn họ, những con người mang sẵn trong mình thứ tình cảm phi lịch sử như thể thừa hưởng thứ ký ức bầy đàn nguyên thủy, mọi biến cố lịch sử xảy ra lúc bấy giờ cũng bình thường như sáng ra họ nhìn thấy mặt trời lên, một người vác cây cày ra ruộng, một người gánh gánh hàng lên làng Dút, tiếp tục cuộc kiếm sống, có vẻ như có một thế riêng cho hai người đang yêu nhau, bổ sung cho cuộc sống vất vả của hai người là những cuộc gặp vội vã trong đêm, ở đồng làng, hay trên con đường làng rợp bóng tre,  những nụ hôn vội vã, tình yêu cũng hiện sinh như cuộc cơm áo, rồi một ngày, có người làng đến bảo nàng hãy từ bỏ công việc tiếp tay cho những người trên rừng, người ta nghi là nàng đang tiếp tay cho mặt trận giải phóng ở trên núi, nàng lắng nghe, nhưng không hiểu, bỡi công việc người ấy nói là hoàn toàn xa lạ với nàng, rồi có người trên núi đến bảo nàng hãy từ bỏ công việc tiếp tay cho chính phủ quốc  gia, người ta nghi là nàng đang làm công việc dò la những hoạt động của mặt trận giải phóng ở trên rừng, nàng cũng lắng nghe, và cũng chẳng hiểu bỡi công việc ấy cũng hoàn toàn xa lạ với nàng, có nghĩa nàng không hề hay biết, nếu không nói là hoàn toàn không biết  mình đã trở nên nguy hiểm, như kẻ thù, đối với cả hai thực thể lịch sử đang tồn tại trên đất nước tôi, mùa này trái ư đang chín, mai em đi làng Dút ở lại tới năm hôm, vì phải còn chờ những người đi hái trái trở về, đấy là một ngày mùa hạ của thế kỷ trước nàng nói với người mình yêu về công việc nàng đang làm, không hề nói về chuyện có những người gặp nàng nói những chuyện không đâu, với nàng, những câu chuyện những người ấy nói với nàng là chẳng dính dáng chi với cuộc sống của nàng và tình yêu của nàng, quá năm hôm không thấy nàng trở về, ông bà Kỉnh vô cùng lo lắng, anh lên làng Dút người ta bảo trong những ngày qua không thấy Lài lên làng, ông bà Kỉnh khóc, anh cố giấu những giọt nước mắt để cùng người làng đi tìm nàng, cả làng tôi đi tìm làng, cả làng Dút cũng đi tìm nàng, cuộc tìm kiếm gần như vô vọng, rồi một hôm anh cứ theo con sông đã cạn hết hết đi về phía thượng nguồn,  con sông phát nguyên từ dãy núi phía nam làng tôi và chảy qua làng tôi bao nhiêu đời vẫn mang phù sa về nuôi dưỡng cây lúa trên đồng làng tôi, nhưng lần này con sông lại là chốn bày ra cảnh lụi tàn: Lài nằm chết trên lòng sông đầy sỏi đá, vết đạn nơi ngực nàng vẫn còn tiếp tục rỉ máu làm ướt cả vạt áo nàng đang mặc, dường người ta không thể ngăn chận được chiến tranh, mà nó thì làm cho cuộc sống lụi tàn, cảnh lụi tàn lần này là ai đó đã bắn chết một cô gái trẻ hồn nhiên như con chim ruộng rồi mang xác  bỏ tận đầu nguồn con sông, có phải sáu mươi năm qua ông ấy vẫn dấu nỗi đau này trong lòng như ngọn lửa nuôi dưỡng một cuộc tình, tôi không dám viết tên ông ra đây như để tỏ lòng kính trọng một con người quí hiếm trong một cộng đồng người đang tan rã,

 

 

[Mười Lăm]

còn như cộng đồng kiến trên rừng, theo nghĩ ngợi của tôi, đồng loại chúng không bao giờ tạo ra cảnh lụi tàn, nếu có là do sự tác động của phía khác, phía của tự nhiên hay của con người, tôi nhớ cho đến lúc tôi đã trưởng thành, đã có vốn liếng kiến thức về thế giới, khi nói về loài kiến trên dãy núi phía nam làng tôi, câu chuyện gần như cổ tích, cha tôi vẫn  xem tôi như hồi còn ấu thơ, con biết không, vua Rừng Dưới cỡi xe nai, đội mũ lá mư, hét ra lửa, tôi đã nhớ lời mở đầu này gần như nằm lòng, nên chỉ im lặng, rán giữ không cười, còn mẹ tôi thì nước mắt bắt đầu ứa ra, vì cũng như tôi, mẹ tôi vẫn còn nằm lòng câu chuyện kể, sau tiếng hét của vua Rừng Dưới thì hết thảy những người từng đi theo vua cùng đốt đuốc lên và xông vào các hang ổ của kiến, lửa cháy đỏ rừng, lũ kiến chết không biết bao nhiêu mà kể, lần này cha tôi kể về lũ kiến trên dãy núi phía nam làng tôi cho tôi nghe như để truyền thụ một bài học về cách nhìn thế giới, nhưng bấy giờ có mẹ tôi ở đó nên bà không thể không nói ra cảm xúc của mình, người xưa thật độc ác, bà lau nước mắt, nói, là cách tranh giành chỗ đứng nơi mặt đất này đấy, cha  tôi nói,  chuyện kể rằng sau đấy vua Rừng Dưới lập ra đất nước của mình, dân trong nước cất nhà gỗ, cày bằng đao trồng bằng lửa, nhưng vào một đêm mùa hạ lũ kiến ở đâu kéo tới, hằng triệu triệu con kiến xông vào cắn chết vua Rừng Dưới, dân trong nước hoảng sợ, bỏ đi hết, rừng lại lên xanh, lũ kiến lại trở lại làm tổ trên cây, nhưng ở Rừng Trên có chàng trai đi chân đất, đôi mắt giống mắt chim vưu, khi nhìn thì như có bầu trời xanh ở trong mắt, này các bạn hữu của ta đừng bao giờ để xảy cảnh tương tàn giữa loài giống con người và loài giống kiến, anh đi nói với hết thảy lũ kiến đang cùng anh sống trên cùng một khu rừng, ngày ngày anh đi nhặt những trái rừng chín rụng, đem ươm, rừng cây mỗi ngày một thêm xanh, một hôm, lũ kiến kéo đến nói với anh: bạn ở trong hang đá ẩm ướt còn lũ ta thì ở trên cây cao mát mẻ là không phải lẽ, rồi cùng nhau xe đá núi về làm ngôi nhà nổi trên mặt đất cho anh, con biết không, đấy là khúc sử tiến hóa mà con người và lũ kiến trên dãy núi phía nam làng ta còn trò chuyện với nhau, bấy giờ thì bên Tây Á, con người cũng bắt đầu làm những ngôi nhà bằng đất bên bờ sông Tigre và Euphrate, đấy là nền văn minh Ur, cha tôi nói, tôi thì đã đọc được những chuyện ấy, nhưng mẹ tôi thì cứ ngồi cười khan, tôi biết mẹ tôi không thể tưởng tượng nổi cảnh con người trò chuyện với lũ kiến  và lũ kiến thì làm nhà cho con người ở, trong lúc mẹ tôi ngồi cười nghiêng nghẻo, tôi cứ nghĩ đến cách đặt tên cho nền văn minh đã xảy ra trên dãy núi phía nam làng tôi, nhưng cha tôi đã cắt dòng suy nghĩ của tôi, hồi ấy ta chưa nghĩ kịp, còn bây giờ thì cứ gọi là văn minh Rừng Trên, ông nói, tháng chín ở quê tôi những cơn mưa đầu mùa đông bắt đầu đổ xuống, mưa xối xả như không ngừng trút nước, nhưng trời vẫn sáng, tôi thấy nơi con đường vào làng tre ở hai bên bờ rào quằn xuống, lũ chim ruộng rũ ướt bên dưới những bụi rậm, đường thành sông, thằng mổng có mắt dắt ông thầy bói đi ngang qua cuộc đời…lũ nhỏ trong làng đang xuôi bè chuối trên con đường làng hay là ta đang nghe thấy tiếng hát tuổi thơ  ta nhỉ, nếu không có tiếng giông sấm của cơn mưa đầu mùa, tôi còn lạc vào tuổi thơ tôi, nhưng không phải trong buổi trưa đầu mùa đông mưa xối xả, ký ức tuổi thơ đã lung lạc tôi, chính là câu chuyện về lũ kiến cha tôi chép trong văn tập Tan Rã của ông đã đánh một cái quá mạnh vào nhận thức của tôi, cả ông Lê Quí Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục và cả cha tôi trong văn tập Tan Rã, trước tác của hai người, theo tôi, đều là văn chương hư cấu, chắc ông Đôn khi ngồi ghế quan ở Huế nghe ai đó kể về mảnh đất cực nam của Thuận Quảng, chuyện kể hư thực thế nào chẳng rõ, chỉ thấy chép trong sách Phủ Biên Tạp Lục: Từ nguồn An Lạc đi lên các thôn Hà Nghiêu, Đất Cày, qua đèo La Hai, giáp đất phủ Phú Yên, đến các xứ Sông Lôi, Nước Nóng, Thượng Nhà, đến nguồn Hà Lôi là chỗ các sách [thôn xóm-chú thích của tôi] người Đê người Man (tục gọi Đê là người Chàm, Man là người Mọi) cộng 3 ngày.  Lại từ đấy cho người Man tiền bảo họ dẫn đường theo đường núi mà đi hết 14 ngày thì đến nơi hai vua Thủy Xà Hỏa Xá nước Nam Bàn.  Nước ấy có chừng hơn 50 thôn, trong nước có núi Bà Nam rất cao lớn, là trấn sơn một phương, Thủy Vương ở phía đông núi, Hỏa Vương ở phía tây núi, đều có địa phận riêng, gác cây làm nhà…tôi từng tra cứu các sách địa chí biết cái tọa độ địa lý ông Đôn tả trong sách Phủ Biên Tạp Lục là thuộc dãy núi phía nam làng tôi, hay là Thủy Vương với Hỏa Vương trong sách ông Đôn đã hóa thành vua Rừng Dưới bị lũ kiến cắn chết và chàng trai từng trò chuyện với lũ kiến trong sách của cha tôi, ông Đôn thì, trên dãy núi phía nam làng tôi phải có vua, hai vua, nhưng cha tôi thì khác, có đất của vua nhưng tàn lụi ngay buổi đầu, từ trên dãy núi phía nam làng tôi dường như cha tôi đã nhìn thấy một cuộc hôn phối như một thứ sấm ngôn về cách thức tồn tại của loài giống con người, ông chép trong văn tập Tan Rã: một hôm, chàng trai thấy có người con gái bước ra từ tổ kiến, nàng đẹp như thể hết thảy những vẻ đẹp trần gian gộp lại, trong dáng giai nhân có cả cái lặng lẽ của loài kiến, có cả cái thân thể uốn lượn tài hoa của loài giống con người, em sẽ sinh cho chàng thật nhiều những đứa con, nàng nói, rồi hai người bước vào cuộc giao phối thác đổ hoa trôi nghìn năm gió biếc trải phong nhiêu, đất làng ta là do hai người ấy lập nên, người làng ta là đám con cháu của đám con trai con gái hai người ấy sinh ra…mỗi lần đọc tới đoạn này tôi cứ thấy vừa vui vừa sợ hãi, như cơn mơ, tôi là hậu duệ của một loài giống bước ra từ cuộc hôn phồi giữa con người và loài kiến ư,

 

 

[Mười Sáu]

cha tôi chép trong văn tập Tan Rã: cả nước đồn ầm lên rằng Thánh Kinh chép sắp đến ngày tận thế, có người biết Thánh Kinh, có người chẳng biết Thánh Kinh là gì, nhưng mọi người đều sống trong tâm trạng như thể những ngày cuối cùng của cuộc đời minh đã đến

 

 

 

[Mười Bảy]

rồi tôi lại mơ thấy mình đi đất Bạt để tìm nàng, em sẽ dừng chân ở đất Bạt chừng mươi hôm, trước đó mấy hôm nàng đã viết cho tôi, đột nhiên tôi cảm , thấy rất nhớ nàng, và quyết định phải đi đất Bạt, ông mới từ phương nam đến, tôi vừa ngồi vào bàn nước một quán giải khát bên đường thì người đàn ông ấy bước tới chỗ tôi, tôi cảm thấy hơi lúng túng không biết phải xưng hô thế nào, bỡi người ấy vừa có vẻ  phóng túng, và vừa có vẻ thông thái, tôi còn phân vân chưa tìm được cách trả lời cho câu hỏi thì ông ấy đã tiếp: lãng đãn sông nước  phương nam vẫn có thể nhìn thấy được ở đây, cái cách một người vừa từ chốn sông rạch bước lên bờ thưởng thức hương vị của đất đai, ông nói về việc tôi đang uống trà, và tự động ngồi xuống với tôi, tôi cảm thấy khát và đã ghé vào cái quán nước có vẻ rất đông khách ấy để uống chén trà trưa,  tôi biết ngài là một chính khách từ phương nam mới đến đất Bạt, miền đất có thể khiến cho ngài cảm thấy dễ chịu nếu ngài chịu khó lắng nghe những âm vang lạnh lẽo còn sót lại nơi những cơn gió bấc cuối mùa, sự lạnh lẽo vẫn thường làm cho con người ta trở nên thông tuệ, người đàn ông có vẻ khinh bạc và thông thái đột nhiên gọi tôi là chính khách và gọi đất Bạt là miền của sự thông tuệ, ông nói, và bắt đầu rót trà ra chén, mời tôi vẻ rất trịnh trọng, làm như thể từ lâu ông đã biết rất rõ về tôi, nói tóm lại là con người xa lạ ấy đột nhiên buộc tôi phải đóng vai chính khách, rồi rỉ tai tôi: chớ để tâm  những người đàn ông đang ngồi trong quán, một bọn vô học đang thất bại trong làm ăn kinh tế, và một bọn vô lại, cái bọn buôn lậu khét tiếng ở đất Bạt ấy mà…những người khách là đàn ông đang ngồi uống trà bắt đầu nhín  nhìn tôi  với vẻ soi mói, khó chịu, tôi thấy rất lo, nhưng lòng tự trọng trước những kẻ xa lạ buộc tôi phải nhập cuộc, tôi bắt đầu đóng vai một chính khách, thật buồn cười, tôi phải đóng vai chính khách trong khi tôi chẳng có chút gì giống với một chính khách, thưa ngài, tôi cũng có thể đoán ngài là một bậc thức giả từng trải, khi ngài đã nhìn thấy được cái lãng đãn phương nam tức đã nắm bắt được thế giới, tôi bắt đầu nói theo ngữ cảnh lúc bấy giờ, không đâu, nơi nghị trường trên đồi Acropolic ngày ấy chỉ mới có một nửa dân chủ, nhưng lũ ngông cuồng của thề kỷ này lại đang mưu toan dựng lại thứ nghị trường Acropolic thời đương đại, tôi kể cho ngài nghe, ngày ấy tôi diễn thuyết ở đất Bạt này, lũ trẻ nít mười hai mười ba tuổi trần truồng như nhộng kéo đến vây quanh tôi vừa dậm chân vừa hát bài hát ngợi ca lũ cóc ếch nhái, tôi ngộ ra mình chỉ là một nhà chính trị lỡ vận, tới lúc đó tôi mới hiểu ra sở dĩ ông ấy buộc tôi phải đóng vai chính khách là để cho nhà chính trị lỡ vận chia xẻ những tâm trạng u uẩn nào đó, tôi nghe như từ đâu đó nơi đất Bạt đang vang lên thứ âm thanh rơi vỡ của những guồng chỉ, hay là tiếng đạp cửi đang tắt lịm giữa thời gian, tôi đã nhìn thấy con đường tơ lụa, nhìn thấy máu và nước mắt những người đất Bạt dệt lụa, nhìn thấy đám người man rợ phương bắc dẫm lên những ngả đường đất Bạt, dẫm lên  xác những người đất Bạt, con chim chưa mỏi cánh đang ở nơi nào trong xứ sở đầy hương thơm sử thi, thứ quá khứ bi thương chợt dấy lên trong ký ức, và tôi lại thấy rất nhớ nàng, tối hôm ấy người ta tống tôi vào ngục, nhà ngục là nhà sau của một tiệm kinh doanh thịt chó gòm có hai gian, người ta nhốt tôi ở gian bên này, còn gian bên kia là đang nhốt chó, thằng cha có vẻ khinh bạc và thông thái ấy đã nếm mùi ở đây rồi, giờ là đến lượt ngài chính khách phương nam, qua ánh đèn dầu, tôi đã nhận ra người đàn ông vừa nói những lời trên với tôi là một trong những người đàn ông ngồi uống trà ở quán nước lúc trưa đã nhìn tôi vẻ soi mói khó chịu, lũ chó lại hùa nhau sủa, và tôi thì cảm thấy rất uất ức, nhưng vì sao ông lại nhốt tôi vào đây với lũ chó, tôi gần như thét lên, hết thảy những chính khách trên mặt đất này đều làm cho cuộc sống trở nên phức tạp, chính là lời lẽ của các ngài đã khiến cho tiệm thịt chó của ta sụp đổ, ta chẳng biết nghị trường Acropolic của các ngài là cái quái quỉ gì, nhưng giờ thì mời ngài đến với nghị trường của lũ chó, người đàn ông ấy thổi tắt ngọn đèn dầu, rồi rời khỏi chỗ tôi, có lẽ bóng tối đã làm cho lũ chó tức giận, chúng lại sủa váng lên, phải nói lúc bấy giờ tôi bị bao vây bốn phía, cái nhà ngục với bốn bức tường kiên cố bao vây tôi, lũ chó còn sống sót của tiệm kinh doanh thịt chó bao vây tôi, tôi nằm trên sàn nhà lạnh ngắt nghĩ ngợi không ngớt về nàng, về số phận con người trong cuộc sống, về những bí ẩn của tạo tác, tới quá nửa đêm thì tiếng sủa của lũ chó đã làm tôi mệt nhừ, tôi thiếp đi trong cơn mơ là tôi đã gặp nàng nơi đất Bạt, khi tỉnh ngủ thì thấy mình đang ở trên lưng một người đàn ông to lớn khỏe mạnh, cứ ở yên đó người anh em  của ta, tôi nghe người ấy nói, và biết là người ấy đang cõng tôi đi trong rừng, kẻ cứu tôi khỏi cái nhà ngục của tay chủ tiệm thịt chó là ai, và đang đưa tôi đi đâu, vào lúc sáng tinh mơ hai chúng tôi dừng lại nơi bờ suối, ở đó đang có nhiều người đang đợi, hoan hô người anh em  của chúng ta, bọn họ nhao lên, cũng như người đàn ông đã cứu tôi, bọn họ cũng gọi tôi là người anh em của chúng ta, tôi cố nghĩ mới nhớ ra người cứu tôi cũng là một trong những người đàn ông ngồi ở quán nước trưa hôm trước, thì ra tôi đã hiểu, đấy là đám người buôn lậu khét tiếng ở đất Bạt, công việc mới của tôi là ngồi giữ đống thùng hàng hóa chỗ bờ suối, chờ những người khác đến lấy đi, thế là từ một tù nhân, tôi trở thành người coi trạm hàng hóa, bọn họ cho tôi ăn uống thật đầy đủ, ngày lo canh giữ những thùng hàng hóa chẳng biết là bọn họ mang từ đâu đến, rồi lại nhận ám hiệu để cho những người khác mang đi, đêm không dám ngủ vì sợ mất hàng hóa, hóa ra tôi cũng lại là một thứ tù nhân bị nhốt trong cái nhà ngục có vẻ hiện đại hơn là thứ luật rừng của bọn buôn lậu, tôi đi đất Bạt mùa đông năm trước, mãi cuối mùa xuân năm sau mới trốn được lũ buôn lậu, trở về quê, và vẫn tiếp tục sống trong nỗi nhớ nàng, giấc mơ giống như một cuộc trùng vây huyễn diệu của thế giới loài người,

 

[Mười Tám]

và cho đến tận bây giờ, cái buổi sáng theo cha tôi đứng ở rìa con đường quan ngơ ngác nhìn người đứng đầu xứ sở trong bộ đồ vét trắng tinh đứng mỉm cười trên chiếc xe Tây không mui chạy lờ đờ qua cuộc đón rước của người làng tôi như thứ  hình ảnh luôn đứng riêng ra ở một góc ký ức bỡi lúc nào nhớ đến nó cũng bắt tôi nghĩ ngợi rất nhiều về số phận con người trong lịch sử, cái buổi sáng làng bỗng nhộn nhịp hẳn lên, người làng lục đục kéo đến con đường quan chạy ngang qua làng tôi từ những năm tháng nào tôi cũng không rõ nhưng mỗi lần đứng ở hiên hè nhà tôi nhìn qua một quãng đồng con đường cứ gợi lên trong tôi  một thứ thế giới xa xăm nào đấy, có khi là một khoảnh vui chơi có những nàng tiên trong những câu chuyện kể của mẹ tôi, có khi là cái xóm làng buồn tẻ của tôi bỗng hóa thành rừng cây chim chóc hót vang, cái buổi sáng ấy, con đường quan đầy kỳ tích của tuổi thơ tôi lại mời gọi tôi, đó là cái buổi sáng tháng sáu đứa trẻ nhà quê vừa biết đọc biết viết trí não đang tập tò vươn ra những thứ chung quanh là tôi cứ thấy như là sắp bước vào quan cảnh huy hoàng của loài người, đi đón vua đấy con, tự lúc tôi và cha tôi còn chuẩn bị cờ xí quần áo để cùng người làng ra đường quan lộ đón người đứng đầu của xứ sở mẹ tôi đã gieo vào trí não tôi thứ hình ảnh cổ kính, với tuổi thơ tôi lúc bấy giờ thì vua thuộc về cổ kính, với mẹ tôi là vua, chứ không phải là tổng thống một nước, bỡi những thứ lý thuyết về một thời đại dân chủ chưa ra đâu vào đâu đối với một người cả đời chỉ quanh quẩn với con gà con heo trong một xứ sở có vua, dẫu trước đó cũng có những năm tháng có ngọn gió mới mang hương vị của thứ thế giới mới thổi qua làng, song cũng vẫn chưa ra đâu vào đâu đối với mẹ tôi một người mà mọi thứ vẫn cứ diễn tiến trong những nhịp điệu cũ, lúc nghe mẹ nói là đi đón vua tôi cảm thấy háo hức như sắp được nghe chuyện cổ tích, rồi tôi cũng bước vào cuộc đón rước như có một không hai trong  đời mình, theo lệnh nhà chức trách địa phương người làng tôi cầm cờ quốc gia đứng dọc theo lề con đường quan, cờ là làm bằng giấy nhà chức trách địa phương phát cho dân làng, chiếc xe Tây không mui  chở người đàn ông mặc đồ vét trắng đã chạy đến chỗ cha con tôi, xe chạy gần như bò trên đường quan, tôi cứ có cảm tưởng chiếc xe Tây không mui sắp va vào chân cha con tôi, khi người đàn ông mặc đồ vét màu trắng đưa tay vẫy tôi và nhìn tôi cười thì tôi sợ chết khiếp, thay vì vẫy cờ như những người làng đang làm, tôi cứ ôm chặt cây cờ giấy vào người và đứng áp sát vào cha tôi, sợ nhưng cứ cố nhìn thử vua là người như thế nào, những ông vua trong những câu chuyện kể của mẹ tôi bắt đầu nhảy múa trong đầu tôi, cũng như người làng mình thôi, ý nghĩ ấy vụt qua đầu tôi khi chiếc xe Tây không mui chở người đàn ông mặc đồ vét trắng đã bò qua khỏi  chỗ cha con tôi, bấy giờ thì người làng tôi hô vang Ngô tổng thống muôn năm, cha tôi cũng hô Ngô tổng thống muôn năm, rồi những chuyện ấy cũng mau chóng ra khỏi trí nhớ của tôi, đứa trẻ quê vừa đi chăn bò vừa học chữ ở trường làng, cho đến lúc cha tôi cho tôi đi học ở trường huyện tôi vẫn là đứa con trai nhà quê chẳng hiểu gì chuyện lịch sử đất nước, bấy giờ đã có chuyện người làng bị bắt bị tù đày, đã có chuyện người làng bị bắt đi kinh tế mới, tức đi lập nghiệp ở nơi xa, tôi vẫn là đứa con trai hồn nhiên, cho đến khi đi học ở trường tỉnh, tôi vẫn là chàng trai mang trong mình thứ tình cảm phi lịch sử, bấy giờ chiến tranh đã xảy ra nhiều nơi trên đất nước tôi, đã có người theo đạo Phật xuống đường biểu tình chống chính phủ của  tổng thống Diệm, ở phố nghe bàn chuyện chính sự, về làng cũng nghe bàn chuyện chính sự, nhưng thật buồn cười, bấy giờ tôi vẫn cho đó là chuyện của người lớn, chuyện của tôi là lo học hành, đỗ đạt, tôi về quê nghỉ cuối tuần, vào một sáng cuối thu, ông  Khả  nhà bên, người duy nhất trong làng có ra đi ô, sang cho cha tôi hay tổng thống Diệm đã bị lật đổ và bị giết, đài phát thanh Sài Gòn vừa nói thế, ông  Khả  nói, không biết cha tôi đã đoán trước được chuyện ấy hay sao, thấy ông chẳng có lời gì, chỉ buông tiếng thở dài, tôi cố hình dung  gương mặt của người đàn ông mặc đồ vét màu trắng đã làm cho tôi sợ hãi hôm ấy, rồi những ông vua trong những câu chuyện kể của mẹ tôi lại bắt đầu nhảy múa trong đầu tôi,

 

 

[Mười Chín]

cha tôi chép trong văn tập Tan Rã của ông: dân chúng Hồi Quốc biểu tình ở nhiều nơi phản đối vụ ăn cắp sợi râu của đức Mahomet, nhưng chỉ ngày hôm sau cả dân chúng Hồi Quốc lẫn dân chúng Ấn Độ vui mừng vì đã tìm thấy được sơi râu của đức Mahomet, biểu tình lớn chống Hoa Kỳ tại vùng kinh Panama, quân đội Hoa Kỳ can thiệp: 19 người chết, 288 người bị thương, sáng sớm nay nhiều ngả đường ở Sài Gòn bị quân đội canh gác, dân chúng đồn có đảo chánh, trung tướng Nguyễn Khánh họp báo tại Bộ tổng tham mưu giải thích không có đảo chánh, chỉ có cuộc chỉnh lý để chính quyền theo đúng đường lối cách mạng, và tuyên bố: được Hội Đồng Quân Nhân cử làm chủ tịch  kiêm tổng tư lệnh quân đội… thật giống  như những câu  chuyện cổ tích dành cho trẻ thơ,

 

[Hai Mươi]

để tặng cho tuổi thơ của tôi lúc nào cũng canh cánh bên mình một thứ thế giới huyễn mộng mà giàu sang, tôi đã nghĩ đến việc phải viết sách, một cuốn sách gom vào  đó hết thảy những ước mơ của một thời, cho dù hết thảy chúng là huyễn mộng,  nhưng là rất thực, những cái thực bước ra từ thứ thế giới quan tôi luôn muốn gọi là thứ vật thể hồn nhiên, rồi vào một ngày tháng tám, mùa thu, từ trên dãy núi phía nam làng tôi lũ cò bay về đậu trắng đồng Ông Cộ, tôi đứng  nhìn cánh đồng làng tôi yêu phủ trắng cánh cò, rồi dường như tôi chẳng còn làm chủ được mình, những chữ nghĩa từ trong tôi cứ tuông ra thành sự tích, tôi đã nhìn thấy ông cụ cố nhà tôi trở về…

 

vào cái ngày lũ cò từ trên dãy núi phía nam làng bay về đậu trắng đồng Ông Cộ, tôi bắt đầu cảm thấy chán ngán về dòng họ nhà mình, lũ cò có liên quan thế nào với dòng họ nhà tôi là chuyện thuộc phạm trù triết học, nhưng phải  nói là  từ khi xảy cuộc cách mạng cây trồng ở đồng Ông Cộ thì lũ chúng đã  không còn về đồng làng tôi nữa, đồng ruộng mía thì đâu phải như đồng ruộng lúa là chốn sinh nhai của cò, cuộc cách mạng về cây trồng đã biến đồng Ông Cộ thành ruộng mía,  đất đồng Ông Cộ mấy nghìn năm trải thân ra với lúa, giờ bỗng tiếp xúc với kẻ xa lạ, chỉ làm sao cho kẻ ấy trở thành quen thân đã khó, huống hồ là phải cất công nuôi dưỡng, việc thay giống cây trồng diễn ra năm sáu năm liền thì năm sáu năm liền người làng tôi luôn gánh chịu cảnh mất mùa đói khó, như vậy là cách mạng phải nhường chỗ cho cố cựu, tức phải trồng lúa trở lại, ai mang tin thất bại ấy cho lũ cò mà vừa mới trồng lúa trở lại, bọn chúng đã quay lại đồng làng tôi, ông Tú Xương, nhà thơ đất Vị Xuyên bảo cách kiếm sống của người nông phu là giống với cách kiếm sống của lũ cò, lặn lội thân cò như vậy, lũ cò với người cày ruộng là cùng chung thứ bản thể lặn lội, trong dòng họ nhà tôi, ông cố cày ruộng, ông nội cày ruộng, cha tôi, bác tôi, chú tôi cũng cày ruộng, như vậy bản thể của dòng họ tôi là bản thể của cò, sáng hôm ấy tôi vừa lao ra đồng Ông Cộ, vừa hét lên, rằng tôi phải diệt hết lũ cò, bấy giờ vừa gặt lúa xong, ruộng đồng chỉ còn trơ những gốc rạ, thì đấy là thời điểm kiếm sống của lũ cò còn gì, trên những thửa gốc rạ, lũ cò chen chúc nhau dẫm, đạp, mổ, rúc, vích, hốt bay lên, hốt đỗ lại, bước tới, quay lui… cũng cần mẫn, chuyên chú, như cái cách theo đôi trâu cày trên ruộng của mấy đời dòng họ nhà tôi, cái cách kiếm sống của chúng là cũng có vẻ chẳng hề mệt mỏi, chẳng hề cần đến bất cứ thứ chi ngoài việc lập đi lập lại những thứ chuyển động có vẻ như bất tận, nó, cái cách kiếm sống của lũ cò là thứ phù điêu khắc lên cuộc sống, thứ phù điêu mô tả một cách tàn nhẫn về dòng họ nhà tôi, vừa lao lên phía trước, tôi vừa gào lên là sẽ diệt hết lũ cò, tôi căm tức lũ cò, và căm tức cả chữ nghĩa, chính là thứ chữ nghĩa tôi phải thoát ra khỏi cảnh theo trâu trên ruộng làm đủ thứ việc trên đời để có tiền ăn học đã làm cho tôi nhìn thấy cái phù điêu đáng ghét  đang âm thầm khắc lên cuộc tồn tại của loài người, cả làng đổ ra đồng Ông Cộ, người ta tưởng là tôi đã hóa điên, vừa la hét, tôi vừa lao tới, đằng trước tôi, lũ cò hốt hoảng bay tán loạn, đằng sau tôi, những người làng vói theo í ới, hãy dừng lại, ông giáo, trong lúc hiểm nguy người ta tôn vinh tôi như thế, dù chưa bao giờ tôi làm công việc dạy học, tôi biết là người làng sợ tôi hóa điên, nhưng tôi không biết con người đang cỡi con vật gì đó đang lao ngược về phía tôi, là ai vậy nhỉ, đừng giết lũ cò, người ấy vừa lao ngược về phía tôi, vừa gào lên, là cỡi trâu, vị khách đường đột xuất hiện trên đồng làng là một người đàn ông  áo quần đầy những vệt máu khô, cả người lẫn trâu nhễ nhại mồ hôi, ta từ làng này ra đi tự lúc ông nội của ngươi vừa mới tập đi, là ông khách cỡi trâu nói với tôi đấy, ông nói với tôi, và vẫn ngồi yên trên lưng trâu, còn tôi thì cứ đứng tần ngần trước  con người nghĩ là mới từ sa trường trở về cũng được, mà nghĩ là mới từ hướng mặt trời lặn trở lại cũng được, bởi vì ông khách cỡi trâu cứ làm tôi nhớ đến ông Lão Tử của nước Tàu cổ với thứ triết học không làm gì cả thì những khách không nhà  là phải cỡi trâu đi về phía tây, nhưng ông là ai lại biết ông nội của tôi, tôi hỏi,  đương tức lũ cò nên tôi cũng có phần trịch thượng trước con người chẳng biết từ đâu lại chạy tới xen vào công việc của tôi, nói là ông khách trả lời câu hỏi có phần trịch thượng của tôi cũng không phải, mà nói là kể cho tôi nghe cũng không phải, ông khách kéo áo lau bớt mồ hôi trán, và bắt đầu nói …nước Pháp Lang Sa chiếm đất nước ta khai mỏ vàng mỏ sắt, bắt lính viễn chinh, đi đánh châu Phi chiếm đất cho nước Pháp Lang Sa, ta bỏ mạng bên đó, một thằng lính viễn chinh gốc gác nước nào chẳng rõ bỏ mạng cùng lượt với ta đã dạy cho ta biết viết chữ, biết đọc sách, gần hai trăm năm qua ta đọc bao nhiêu là sách, tìm hiểu bao nhiêu là nền văn minh, đi bao nhiêu là nơi chốn trên mặt đất này để tìm cho ra cái cách được cai trị sao cho đừng xảy ra chuyện như đã xảy ra với ta… nhưng, thưa ông là ai lại từ làng này ra đi, tôi hỏi, không còn dám trịch thượng, mà cảm thấy sợ hãi, nỗi sợ hãi trước một kẻ xa lạ mà tôi bắt đầu cảm thấy nếu không phải bậc tiền nhân đáng kính của làng thì cũng là một văn nhân mặc khách từng trải lẽ đời, ông khách không nói mình là ai, chỉ kể ra cho tôi nghe tên họ của những người trong dòng họ nhà tôi, ông giáo bị điên chữ mất, lúc tôi đột nhiên sụp xuống lạy ông khách cỡi trâu thì nghe ai đó trong những người làng đang vây quanh tôi nói ra lời ấy, tôi đã hiểu ra: đúng là ông cố của tôi,  thưa ông, chuyện ông bị người Pháp bắt vào lính viễn chinh và chết bên châu Phi nhà ta ai cũng biết, tôi vừa thưa nói, vừa sụp lạy ông cố tôi trước vẻ ngơ ngác của người làng, con đã gặp được ta thì niềm vui này cũng sánh bằng niềm vui của những nhà phát minh thông thái đã gặp được trăng sao trời đất thuở mấy trăm năm trước, ông cố tôi vẫn ngồi trên lưng trâu nói và âu yếm nhìn tôi, nhưng thưa ông, dòng họ nhà ta là thuộc nền văn minh nào, mà từ đời ông cho chí đời lũ cháu vẫn là những kẻ cày ruộng, tôi hỏi được câu này thì hình như là có vơi bớt đi niềm căm tức lũ cò, ông cố tôi chợt nhảy xuống khỏi lưng trâu, phải hí hoáy một hồi ông mới lấy được vật gì đó từ trong gói hành trang đang mắc trên lưng trâu, nhờ có bộ áo quần này mà nó mới tìm được ta, khi tìm được ta thì chiếc răng cuối cùng của nó bắt đầu lung lay và chỉ sau mấy hôm thì rụng, là ông cố tôi nói về con trâu đã cùng ông cày ruộng thuở ấy, trâu đã sang tận châu Phi tìm ông, tìm được ông là nhờ ông vẫn còn mặc bộ áo quần ông mặc lúc cùng với trâu cày ruộng ở đồng Ông Cộ, hãy giữ lấy nó như báu vật của một dòng họ hậu duệ của một nền văn minh cổ kính, ông cố tôi nói, và trao cái răng trâu cho tôi, thật sự bấy giờ là tôi rất xúc động, dẫu chưa biết thứ văn minh cổ kính ông cố tôi nói có phải là văn minh lúa nước hay không, bấy giờ thì ông tôi đã leo lên lưng trâu trở lại, và tôi thì cứ thấy hồi hộp, chẳng biết là chuyện gì sẽ xảy ra sau đó, cho tới nay thì các vị làm công việc trị nước đã nghĩ ra không biết bao nhiêu là cách cai trị, còn những nhà thông thái thì cũng đã cố nghĩ ra bao nhiêu là cách được cai trị, nhưng cho tới nay thì thứ thân phận thân cò của dòng họ nhà ta vẫn không hề thay đổi, ông ạ, tôi vội vã vận dụng những kiến thức sách vở có được để nói ra nỗi ấm ức của mình, quả tình giờ phút sắp chia xa ấy làm tôi vô cùng lo lắng, kể từ khi có tổ chức bầy đàn thì nhân loại là luôn sống dưới sự cai trị của những con người bằng xương bằng thịt, nó là thuộc chuyện cai trị và bị cai trị, thuộc chuyện áp bức và chống áp bức cháu của ta ạ, nhưng giờ thì ta phải đi, không có chuyện cháu của ta đuổi giết lũ cò thì ta chưa trở về quê đâu, cuộc tìm kiếm là còn mờ mịt lắm, nhưng là ta phải đi, để may ra nhìn thấy được cái cách nhân loại được cai trị sao cho đừng xảy ra chuyện như đã xảy ra với ta, ông cố tôi nói, và thúc trâu quày lại hướng ông vừa mới thúc trâu đến, tôi nói gần như không thành lời vì quá xúc động, rằng, giá ông đừng đi nữa thì dòng họ nhà ta vui biết mấy, rằng, nếu như có ông bên cạnh thì tôi sẽ hiểu ra bao nhiêu thứ về cái thế giới mà lũ cò đang muốn vẽ lên đó thứ hình ảnh tôi cho là kém vui, ôi…đã chết mà vẫn còn lo lắng khổ sở,  tôi nghe như có những ai đó trong đám dân làng thì thào lúc ông tôi quày trâu ra đi,  nhưng đi được một đoạn,  ông tôi lại quày lại căn dặn tôi: đừng giết lũ cò, dẫu chỉ là mỗi một con, lũ sinh vật cần mẫn ấy còn là cuộc văn minh của ta còn,

 

[Hai Mươi Mốt]

tuổi thơ tôi như bầu trời cao trong vắt rồi cái khúc sử ấy chen vào làm dấy lên những bụi đường, cho đến tận bây giờ bụi đường luôn làm mắt tôi hoang mang mỗi lần nhìn ngắm một sự vật trần gian, nhưng như vẫn còn nhìn thấy cái buổi trưa ấy mới xảy ra đâu đây, buổi trưa tôi nhốt hai con bò cày vào chuồng xong rảo mắt thử còn phải làm việc gì nữa không trước khi  ăn cơm trưa, thì con người ấy đã chen vào cuộc đời niên thiếu của tôi, làm thức dậy thứ tình cảm kiêu hùng, tôi cũng chẳng biết có phải đấy là thứ tính cách con người được hun đúc tự buổi tổ tiên loài người mới là những homo sapiens, thứ tính cách muốn vượt lên trên hết thảy mọi thứ, muốn làm bá chủ mọi thứ, chú Bảy Huổn con ông bà Sáu Kỳ làng mình đó chứ con, mẹ tôi nói cho tôi biết người đàn ông đang quì trên bờ ruộng lúa giương khẩu súng ngắn về phía lũ cò đang đậu trên cánh đồng làng trước nhà tôi là chú Bảy Huổn, cái tượng đài kiêu hùng ấy bỗng bày ra trước mắt đứa trẻ quê đương sống trong thế giới chật chội, ngày nào cũng chỉ nhìn thấy bấy nhiêu thứ, con bò, đám ruộng, mảnh vườn, có thêm vào những thứ khác thì cũng chỉ là những ngày nắng như đổ lửa, hay những hôm mưa như trút nước trên đầu, không phải bấy giờ tôi mơ ước được như chú Bảy Huổn con ông bà Sáu Kỳ, nhưng hình ảnh một người quì trên bờ ruộng lúa nhắm lũ cò để bắn đã làm tôi cảm thấy rất lạ và rất thích, bỗng thêm vào tình cảm đơn điệu của đứa trẻ quê một chút hân hoan: làng  không phải chỉ có bấy nhiêu như tôi biết bấy lâu mà còn có một con người ghê gớm,  bấy lâu tôi cũng có nghe người lớn nói về một người làng đi bộ đội cụ Hồ đóng quân tự đâu các tỉnh miền trong, chuyện về một người tôi chưa gặp chưa biết thì không thể giữ lâu trong trí nhớ, nhưng từ buổi trưa ấy hình ảnh chú ấy giống như cái ngoặc đơn mở ra trong nghĩ ngợi của tôi [làm thế nào làng mình lại có được một người như thế chứ] lúc ông bà Kỳ sắp chuyển đến ở làng tôi thì chú Bảy Huổn đã là trung đoàn trưởng một trung đoàn quân chủ lực, và lúc tôi nhìn thấy chú ấy rình bắn lũ cò trên đồng làng đã là một sư đoàn trưởng một sư đoàn bộ binh, lần đầu tiên chú ấy về quê hương thứ hai của mình, tôi theo người làng đến nhà ông bà Sáu Kỳ, không phải là lần đầu đến nhà ông bà Sáu Kỳ, nhưng lần này cứ thấy lấn cấn trong lòng bỡi trước giờ tôi chưa bao giờ nghĩ ông bà Sáu Kỳ lại có một người con kiêu hùng như vậy, anh Bảy sao tới nay mới chịu về làng, chú Bảy chỉ ở mấy tỉnh trong đó hay sao, đã bắn được mấy thằng Tây rồi chú Bảy, đó là những câu hỏi tôi nghe được, chú Bảy Huổn mặc quân phục để đón tiếp người làng, chú Bảy bận áo quần bộ đội vô trông giống người nước ngoài ghê, câu hỏi này là của thằng Tẻo con chú Tám Theo, thằng ấy láu cá, đã có người nước ngoài nào đến làng tôi mà nó nói chú ấy giống người nước ngoài, cuộc thăm viếng giống như buổi mét ting nho nhỏ, chủ và khách cùng trải chiếu ra nền nhà mà ngồi, tôi đến ngồi bên chú Bảy, tai nghe chú ấy trả lời những câu hỏi của bà con trong làng, còn tay thì mân mê khẩu súng ngắn chú Bảy đang mang bên hông, cháu cũng thích làm bộ đội phải không, chú Bảy vò đầu tôi, hỏi, tôi gật đầu đại, chứ thật ra trong lòng chẳng muốn rời mẹ tôi, chỉ thấy thích cây súng ngắn, hình ảnh người đàn ông quì trên bờ ruộng lúa để bắn lũ cò lại hiện ra trong đầu tôi, này cháu, chú đã hiểu rồi, chú Bảy nói, đã kéo tôi ra khỏi giấc mơ, chú ấy bảo tôi đứng lên với chú ấy, và bắt đầu câu chuyện coi như là biến cố lớn nhất trong buổi ấu thơ của tôi, hôm nay có đủ mặt bà con làng mình, tôi xin đề cử em làm tiểu đội trưởng đội thiếu niên cứu quốc làng ta, chú Bảy Huổn nói, rồi  mở nịt súng, chuyển sang cho tôi, cây súng cứ trệ xuống ở hông tôi khiến tôi ngượng muốn chết, bỗng chốc tôi được làm công việc cứu quốc, tôi chỉ làm thiếu niên cứu quốc ở làng, còn cây súng ngắn thì trả lại chú Bảy để chú ấy trở lại đơn vị bộ đội của chú ấy, bấy giờ không chỉ thiếu niên cứu quốc, mà làng còn có cả phụ nữ cứu quốc, thanh niên cứu quốc, phụ lão cứu quốc, cái khúc sử ấy bỗng chen vô buổi ấu thơ của tôi làm dấy lên những bụi đường, bấy giớ chiến sự xảy ra khắp nơi, thì tôi cũng chỉ nghe nói vậy, chứ chưa thấy chiến sự nó là thế nào, tự dưng tôi cứ sợ mất chú Bảy Huổn, tôi đến nhà ông bà Sáu Kỳ nhiều hơn, bấy giờ ông bà Sáu Kỳ đã quá già yếu, chú Bảy Huổn vẫn đi biền biệt, nên mọi thứ chỉ nhờ vào sự giúp đỡ của bà con trong làng, những năm tháng như thế đã trôi qua, rồi tôi đã lén khóc một mình khi nghe tin chú Bảy Huổn bị thương, bị cưa mất một cánh tay, cứ hình dung người đàn ông khỏe mạnh quì trên bờ ruộng lúa rình bắn lũ cò là tôi lại khóc, bấy giờ tôi đã dẹp bỏ tình cảm kiêu hùng, không phải chú Bảy Huổn đề cử tôi làm thiếu niên cứu quốc mà tôi yêu quí chú ấy, bấy giờ tôi đã hiểu ra có một người không hiểu vì sao đã bỏ tất cả để đi đánh giặc ngoại xâm và cứ thấy vừa khâm phục vừa thương mến trong lòng, mấy chục năm sau bụi đường lại làm mắt tôi hoang mang khi nhìn thấy chú Bảy Huổn về làng, lần thứ hai  chú Bảy Huổn về làng, về làng lần này chú Bảy  có đủ thê nhi, nhưng đã mất một cánh tay, và mất cả cha mẹ, ngôi nhà vắng vẻ kể từ hôm ông bà Sáu Kỳ mất bỗng nhộn nhịp hẳn lên, vợ con chú Bảy, rồi người làng kéo tới thăm, nhưng cũng chỉ được mấy hôm, con cháu chú Bảy lại kéo nhau trở lại thành phố, làm chủ ngôi cũ của ông bà Sáu Kỳ bây giờ cũng là đôi vợ chồng già, tôi đắn đo mãi vẫn chưa dám đến thăm ông Huỗn, trong tâm trí tôi ông là người thân của tôi dù chỉ gặp một lần, sẽ nói những gì khi gặp lại người từng làm thức dậy trong tôi rất nhiều thứ, tình cảm kiêu hùng, cuộc thăng trầm của quê hương, và lòng yêu đất nước, tôi không cần gõ cửa, vì nhà ông Huỗn cửa trước cửa sau đều không đóng, tôi chào bà Huỗn, người tôi nhìn thấy đầu tiên, bà đang ngồi trên giường gỡ tóc rối, ông Huỗn nằm trên giường kê đối diện với giường bà Huỗn, lúc tôi chào bà Huỗn, ông vẫn nằm im nhìn ra cửa sổ, tôi đánh bạo ngồi xuống giường của ông, chú có còn nhớ tôi không, nghe tôi hỏi ông quay lại nhìn tôi, cười, trí nhớ của ông ấy giờ kém lắm, bà Huổn nói, thằng bé chú đề cử làm thiếu niên cứu quốc mấy chục năm trước đây chú, tôi tự giới thiệu cho rõ ràng một chút thử ông có nhớ không, nhưng ông Huỗn vẫn tiếp tục nhìn tôi, cười, hai bàn tay vẫn tiếp tục mân mê cúc áo làm như thể áo chưa cài nút, thói quen của một người lính trận đấy sao, sáu chục năm ông cầm súng biền biệt quê hương, cha mẹ chết nhờ hàng xóm chôn để đi đánh hai thứ giặc Pháp và Mỹ,  chiến công hiển hách  được ghi rất rõ ở những tấm huân chương đỏ rực treo trên vách tường phòng, bà Huổn là người tôi chưa bao giờ gặp nên chẳng biết chuyện gì để trò chuyện, tôi cứ bám lấy ông Huổn, thưa chú, bây giờ thì chú có thể ra đồng làng ta bắn cò nữa không, tôi hỏi, thấy ông lắc đầu tôi mừng lắm, như vậy là ông đã nhớ được những chuyện cũ, thưa chú, tính đến mùa hè này tuổi thọ của chú là bao nhiêu vậy chú, tôi hỏi, ông Huỗn dơ hai ngón tay lên, rồi sợ tôi không hiểu nên nói thêm: hai tuổi, giọng nói của  ông có vẻ khó khăn lắm,

 

 

[Hai MươiHai]
cha tôi chép trong văn tập Tan Rã của ông: ngày 16.6. 1954, chính phủ của thủ tướng Bửu Lộc từ chức, Ngô Đình Diệm được vua Bảo Đại bổ nhiệm làm thủ tướng để thành lập chính phủ mới,  ngày 23.10.1955 thủ tướng Diệm tổ chức trưng cầu dân ý để truất phế vua Bảo Đại, mỗi cử tri được phát hai lá phiếu, một lá màu xanh, một lá màu đỏ, với lời nhắc nhở rằng Phiếu đỏ ta bỏ vô bì/ phiếu xanh Bảo Đại ta thì vứt đi, lá màu đỏ in hình ông Diệm với câu tôi bằng lòng truất phế Bảo Đại và nhìn nhận ông Ngô Đình Diệm làm quốc trưởng quốc gia Việt Nam với nhiệm vụ thiết lập một chế độ dân chủ, lá xanh in hình vua Bảo Đại với câu tôi không bằng lòng truất phế Bảo Đại và không nhìn nhận ông Ngô Đình Diệm làm quốc trưởng quốc gia Việt Nam với nhiệm vụ thiết lập một chế độ dân chủ, cử tri phải chọn một trong hai lá phiếu để bỏ vào thùng phiếu, lá còn lại vứt đi, kết quả có 5.721.735 phiếu màu đỏ, 63.017 phiếu màu xanh, ông Diệm đã giành được thắng lợi theo ý muốn, hay đời người là một dòng chảy không phải được tạo ra trong buổi tạo núi sông của tạo hóa, mà do con người làm ra, đời người là một con kênh đào cho nước chảy qua,  có phải vậy không nhỉ,

 

 

[Hai Mươi Ba]

trong nghĩ ngợi lãng mạn của nhân loại thì sự tồn tại của những hệ hình tư tưởng  là những cuộc chơi náo nhiệt nhất, nàng bỗng viết cho tôi với thứ ngôn ngữ nghiêm túc bất ngờ như thể vừa trải qua một biến cố nghiêm trọng nào đó, nhưng đọc hết thư thì thấy không phải, một người trong cuộc du hành lênh đênh [nàng bỏ tôi đi tìm cái có thể] muốn thể nghiệm một cách nhìn thế giới cho bớt đi tính cách hàn lâm của những văn bản thường được gọi là những đại tự sự, em muốn thử làm một tay giang hồ đương đại để nói về đồng loại của mình, nàng giải thích với tôi, mới hôm qua thôi, anh biết không, từ sáng sớm mai cho đến chiều tối, mấy vạn dân thành phố và vùng lân cận thành phố [vốn là đế đô của xứ sở này] đã tụ hội về quảng trường lớn của thành phố để nghe bài thuyết giảng về thuyết biến hành của vị quốc vương của đất nước còn vua này, em không tiện nói nói tên vị quốc vương, bỡi có nói ra anh cũng không nhớ nổi, bỡi tên của quốc vương là bao gòm họ và chữ lót của một dòng vương tộc, bao gòm tên của nước qua các thời kỳ, bao gòm các tước hiệu, vương hiệu được phong kể từ lúc được lập làm thái tử cho đến khi lên ngôi vua, mà thôi, anh cứ quên chuyện này đi, chủ yếu là thuyết biến hành, đấy là em nói theo cách nói của người nước mình, tức sự quyền biến trong hành động, sự quyền biến trong nghĩ và  làm, bài thuyết giảng là được soạn sẵn [em cũng không biết có phải chính vua thảo ra hay không] ngài thị trưởng thành phố chỉ đọc, ai mà biết cái gì đã làm cho  ngài thị trưởng đầy cảm hứng, nội dung mangk tính triết học u huyền của thuyết lý, hay là mấy cô lễ tân vừa trẻ vừa đẹp suốt từ sáng sớm đến chiều tối thay nhau lượn lờ quanh bục diễn giả [thay nước giải khát, thay khăn lau mặt, điều chỉnh mi cơ rô…] lễ đài là nhà tiền chế hiện đại được dựng từ ngày hôm trước, mỗi một mình diễn giả trong bộ áo quần màu đen kiểu y phục của các triết gia cổ đại đứng ở bục diễn giả trên lễ đài cao, thâm u [ bỡi cái cách bố trí ba nô áp phích, màn, và đèn chiếu] ngài thị trưởng có vẻ oai vệ như một vị thần, đứng suốt ngày nhưng chẳng hề tỏ ra mệt nhọc chút nào, ông đọc, thỉnh thoảng tủm tỉm cười, ai mà biết cái gì đã làm ông vui, những chỗ nhấn hơi trần tục một chút trong bài thuyết giảng, hay vì thỉnh thoảng các cô gái lễ tân lại chạm vào đùi ông để sửa lại vạt áo choàng bị gió làm tốc lên, 

 

thế giới là cái bẩy khổng lồ tạo tác giăng sẵn ở đó kể từ khi sự sống hình thành, một chiều lá rụng trên sân, hay, nửa khuya con chim ăn đêm cất tiếng kêu vang, không phải ngẫu nhiên mà núi cao, hay biển rộng, dưới gầm trời này chẳng có cái gì ngẫu nhiên cả, tất cả là tất định, như ta, quốc vương một nước là tất định, như người xứ sở này sinh ra từ  ông tổ đẻ bằng nách là tất định, cả đời lũ các người chưa chắc đã hiểu tại vì đâu có lá rụng trên sân, tại vì đâu có con chim kêu đêm, từ buổi sơ khai, trời đất đã giao phối, ngày đương quang đãng bỗng ủ ê, rồi có tiếng sấm vang, ông tổ đẻ ra người xứ sở này được trời đất đẻ bằng nách, ngày hôm nay con người và những con thú khác biết giao phối chỉ là bắt chước trời đất, vào một ngày đương quang đãng bỗng ủ ê, ta đã nhìn thấy thuyết biến hành, khi lũ các người muốn tiêu diệt người bạn láng giềng của lũ các người thì hãy đi rêu rao về hòa bình, rồi lũ các người sẽ tiêu diệt được kẻ đó, khi lũ các người run sợ trước sức mạnh của kẻ khác thì lũ các người hãy đi rêu rao về chiến tranh, rồi lũ các người sẽ bình yên, việc lũ các người được ta dạy cho thuyết biến hành nó là tất định,

 

em chép cho anh đọc thử một đoạn của bài giảng thuyết, vào lúc xế trưa thì ngài thị trưởng đã đọc bài giảng của vua đến lần thứ năm mươi hai, và thoắt cái em nhìn thấy người trên quảng trường bỗng biến đi đâu hết để lộ ra đám người hát rong đang ngồi thành hàng dài dưới chân lễ đài, xin chào bạn, bọn chúng tôi những kẻ hát rong kiếm sống, một người đàn ông trong bọn họ đứng lên vái chào em và nói, biết là những người xứ khác bỡi giọng nói và cách ăn mặc, và chắc bọn họ cũng biết em không phải người xứ sở này, nghe đồn đến thử mới rõ ông vua mang trái tim quỉ, người đàn ông bỗng nói ra nghĩ ngợi của mình, rồi ngồi xuống lại với đồng bọn, cùng cất tiếng hát, một bài ca cổ về câu chuyện bỗng con người biến thành những con thú bốn chân, ta vốn là con người làm sao đi uống máu những con thú khác…nghe bài hát em cứ sợ sẽ xảy ra đổ máu, nhưng có lẽ ngài thị trưởng trên lễ đài chẳng còn lòng dạ để nghĩ đám người hát rong, có thể là ông bị tội chém vì đã để cho đám dân của vua dám tỏ thái độ khi quân, rồi như một cuộc tái sinh, em bấy giờ cũng rơi vào thứ tình cảm như được sống lại ấy, bấy giờ người ta lại kéo trở lại quảng trường, không phải chỉ có người, mà còn có cả trâu, bò, gà, chó…thì ra đám dân ở các vùng quê chung quanh thành phố nghe vua giảng thuyết biến hành đã lùa đám vật nuôi của mình về thành phố, còn những chim cảnh, cá cảnh… là của đám dân thành phố, bọn  họ cứ để nguyên chúng trong lồng trong chậu mà khiên đến quảng trường, quốc vương anh minh muôn năm, người ta vừa lùa đám vật nuôi tiến đến lễ đài vừa hô vang lời chúc tụng vua, trên lễ đài, các cô gái lễ tân xúm lại công kênh ngài thị trưởng, cũng hô vang lời chúc tụng vua, anh biết không, rồi ngài thị trưởng lại tiếp tục đọc bài thuyết giảng của vua, đám dân chúng thì bắt đám vật nuôi của bọn họ  ngóng cổ nghe,

 

[Hai Mươi Bốn]

hay là có những niềm tin bí ẩn tồn tại trong nhân loại, người ta tin mình có một vị thần để thờ phụng và ngoài ra chẳng có thần linh nào khác, hay người ta tin mình là minh triết và ai nghĩ trái với họ đều sai lầm tuốt, hay sống là để múa hát, để tuyên bố điều này điều nọ, rồi chết, tôi không biết, ngay cả tôi cũng không biết làm sao tôi lại gặp được nàng, một ngày tháng giêng, cái cách phô bày hương sắc của đám hoa dại nơi bờ rào con đường làng cứ làm tôi thấy nhớ nhung một điều gì đó, ngay khi đã vào đến rừng tôi vẫn còn trong tâm trạng như vừa đánh mất một hình ảnh thân thiết nào đó, tôi đã quyết định lên rừng vào một ngày tháng giêng khi tôi bỗng rơi vào niềm tin kỳ cục, rằng, lên rừng lần này sẽ gặp được điều mình mong đợi, chẳng thể hình dung nó là gì, chỉ thấy háo hức như lần đầu tôi theo cha bước chân vào dãy núi tôi yêu, núi rừng cũng giống như chuyện cổ tích con ạ, cha tôi nói, tôi không hiểu ý nghĩa câu ấy, chỉ thấy nôn nóng  sắp được nghe  một câu chuyện nào đó về dãy núi tôi yêu, rồi cha tôi và tôi, bấy giờ, cứ đứng lặng người trước thứ dấu vết của quá khứ, ông Lê Quí Đôn viết trong Phủ Biên Tạp Lục: trên núi có thành đá trắng, rộng ước một mẫu, mở bốn cửa, trong đó có voi đá ngựa đá nằm, gọi là điện vua Hồ, và hình như lần đó cũng là lần đầu cha tôi đến đó, núi rừng là nơi cất giữ những đổ nát con ạ, cha tôi vụt nói ra với tôi những lời tôi chẳng hiểu gì cả, trước mặt cha con tôi là cái mô đất màu gạch nung nhô lên giữa đất rừng bằng phẳng, cao trình của đất có vẻ bất thường như thể đó là thứ gập gềnh hình thành từ buổi đầu của sông núi, nhưng không phải, cha tôi cứ đứng lặng người, thật lâu sau  mới kể cho tôi nghe chuyện ông vua bại trận, bỏ nước cũ, lên rừng lập đế đô khác, mô đất cao là dấu vết thành quách cũ, về sau, khi đọc Phủ Biên Tạp Lục, tôi biết là cha tôi đã thêm lời ông vào những lời trong sách ông Đôn, rồi sau khi cha tôi mất, tôi đọc trong văn tập Tan Rã của cha tôi: lần này lên núi ta đã nhìn thấy một gương mặt khác của ông vua bại trận, cha tôi chỉ viết thế, hay là ông muốn có một ví dụ về sự tan rã của lịch sử, hay là ông muốn nói đến đổ nát của lịch sử như một bí ẩn của tồn tại, thì ra cha tôi lên rừng lần ấy là để nhìn lại thứ vết tích trên rừng để nhìn lại ông vua trong Phủ Biên Tạp Lục theo cách của ông, vào cái ngày tháng giêng hương sắc những loài hoa dại trên con đường làng cứ làm tôi thấy nhớ nhung một điều gì đấy tôi đã quyết định lên rừng, tôi lặng lẽ bước giữa rừng cây thâm u cổ kính canh cánh trong nghĩ ngợi một thứ hình ảnh mơ hồ, rừng núi với tôi bao giờ cũng thâm u cổ kính, mùa xuân như đang dịch chuyển trong cảm thức của tôi, cứ thấy như hết thảy lá rừng ngửa mặt lên bầu trời thanh khiết đón lấy những giọt bình yên, một thứ nhất thể đang trình diễn trong cảm thức tôi, mùi lá non với nắng sớm mai hồng với sự vươn cao của cây rừng là một, tiếng chim với tiếng chân lũ bướm chạm lên sự nhúc nhát của đám hoa rừng là một, trong thứ thời khắc thiêng liêng là tôi đang nhìn ngắm cái nhất nguyên của trời đất gương mặt ông vua cha tôi chạm khắc dở dang ngày ấy lại hiện ra trước tôi, thì ra tôi đã trở lại nơi mấy chục năm trước tôi và cha tôi đã đến, tôi biết, cho đến lúc chết cha tôi cũng chỉ có những khái niệm mơ hồ về triều đại của ông vua ông Đôn đã nói, bỡi vì trong Phủ Biên Tạp Lục triều đại của ông vua ấy cũng chỉ được mô tả mấy dòng: trên núi có thành đá trắng…hay là ông Đôn, rồi cha tôi,  muốn vẽ ra một cảnh điêu tàn của lịch sử để nói ra quan điểm lịch sử của mình, tôi không biết, và bây giờ, lại đến lượt tôi, lịch sử  giống như cơn mưa nặng hột đang đổ xuống đầu tôi, và tôi cũng không hiểu làm sao giữa lúc tôi đang rối mù về chuyện kinh đô ông vua Hồ trên núi nàng lại có thể bước ra từ nhận thức của tôi, em vẫn còn sống sót sau những khúc quanh của lịch sử để gặp anh, nàng nói, nơi thành quách cũ của ông vua bại trận tôi đã gặp được nàng, tối hôm đó tôi và nàng ở lại trong rừng để đánh dấu một cuộc gặp như một thứ định mệnh, rồi tôi  với nàng cứ ngồi tựa lưng vào nhau như thế ở nơi khoảnh đất trống nhìn thấy rõ bầu trời trên đầu, khuya, rừng núi bắt đầu trở lạnh, ngôi sao hình cánh bướm ở biên dãi ngân hà là của em, còn ngôi sao hình đầu chó, cạnh đấy, là của tôi, tôi nhìn lên bầu trời trên đầu, và giảng giải, có lầm lẫn  không anh, nàng hỏi, không lầm lẫn đâu, tôi nói,  máu, nàng kêu, tôi thử  sờ lên chỗ vấy ướt ở vạt áo của nàng nơi nàng kêu có vấy máu, lúc đầu chỉ nghĩ  là nước của con suối, nàng nói với tôi là nàng vừa mới lội qua  con suối, nhưng không phải, quả là mùi máu, có thể là máu của cuộc va đập đã tan chảy vào con suối, tôi nói, nàng nói với tôi là nàng vừa lội qua một con suối để chạy trốn cuộc va đập khủng khiếp, chúng nó, những ngôi sao chiếu mệnh ấy là sinh ra từ những càn khôn đồ trận nào mà để cho chúng ta  luôn hứng chịu những cuộc va đập chết người, tôi lại nhìn lên bầu trời, và nói, nhưng tại sao không phải thứ gì khác mà là cánh bướm với đầu chó, nàng lại thắc mắc, tôi bảo là tôi cũng không hiểu tại sao là thế, và cuộc va đập bấy giờ như có vẻ trầm kha hơn, bấy giờ thì dường như từ phía đầu kia  mặt đất đương vang lên những âm thanh hỗn độn tựa  những ngọn núi  đang  đổ, những sông suối đang  tràn lên nhau, và lũ cua cá đang gào thét, nhưng  nàng bảo đấy không phải cua cá, mà là  tiếng gào thét của con người, là chúng đang cắn nhau bằng chữ  nghĩa đấy, tôi nói, em cũng đã nhìn thấy chúng rồi, nàng nói, phải, mặc cho kẻ khác đau đớn quằn quại,  lũ chúng vẫn tiếp tục phun ra những chữ nghĩa, những con chữ vốn hiền hậu, vô can, khi được phun ra từ miệng chúng thì lập tức trở thành những thứ khác, lúc là những nụ cười trơ tráo, có nghĩa, lẽ ra là khóc nhưng lại cười, lúc là những tiếng khóc vô cớ, có nghĩa, cái nguyên cớ không phải làm cho khóc mà cứ  khóc, hóa ra, thứ âm thanh hỗn độn đang vang lên từ đầu kia mặt đất là sự trộn lẫn giữa tiếng gào thét  của những kẻ bị sỉ nhục với tiếng cười trơ tráo  của lũ người vô sỉ, lần đầu tiên tôi và nàng nhìn thấy những kẻ bị sỉ nhục cứ nấc lên những tiếng ngất ứ nghẹt và ngã ra chết,  hãy lắng thử coi, nàng chợt kêu, từ đầu kia mặt đất lại vang lên những  âm thanh có vẻ kỳ lạ hơn, đã có  cuộc nổi dậy nào đó hay  sao, nàng bảo,  những kẻ bị sỉ nhục không còn chịu nổi sự sỉ nhục, tôi tiếp lời nàng, nhưng nào phải, là  chữ nghĩa chúng phun ra đang  hóa thành những âm thanh kỳ dị mới thoảng nghe ngọt ngào như những bài hát rong của buổi sơ khai của lịch sử, nhưng  đằng sau những ngọt ngào là những gầm gừ như  cái cách gầm gừ của con hổ sắp vồ được con mồi, hóa ra những gầm gừ dấu kỹ đằng sau những ngọt ngào là hóa thân của chữ nghĩa, a ha một thứ tuyên ngôn của chủ nghĩa đương đại, tôi buột kêu, nhưng chủ nghĩa đương đại nó là gì vậy anh, nàng cũng buột kêu, thì trong lúc bất chợt nghe thấy  âm thanh quái lạ ấy tôi cũng bất chợt nghĩ ra thế thôi, có phải chủ nghĩa đương đại là những thứ mang trong mình những giả dối và vô sỉ  không anh, nàng lại kêu lên khiến tôi cảm thấy vô cùng bối rối, và những âm thanh quái lạ kia như những thác nước đang cuồn cuồn chảy ngược về phía tôi với nàng, hỡi những ngôi sao chiếu mệnh, lũ ngươi là được sinh ra từ những tầng trời nào lại để cho  bọn ta luôn hứng chịu những va đập chết người, tôi ngửa mặt lên than như một cách thức xua đuổi nỗi sợ hãi, anh và em chết mất, nàng thì thào, và cứ áp sát vào tôi, làm như thể đề truyền cho nhau sức chịu đựng trước mối đe dọa của cuộc va đập gây ra bỡi lũ người  vô sỉ, hãy nhìn lên những ngôi sao chiếu mệnh của chúng ta và chớ nghĩ đến bọn chúng nữa, giữa lúc gần kề sự chết, tôi kêu lên thế, và tựa hồ một thứ phép màu, một ngôi sao mới  đương hình thành trên bầu trời đêm đầy sao, thứ ánh sáng trẻ trung ấy bất chợt chiếu rọi vào tận  chỗ sâu thẳm trong ý thức  của tôi và nàng, áo ai bay lộng lẫy giữa đất trời… nàng nói vừa đủ cho tôi nghe, những mảnh phù sinh… em ạ,  tôi cũng chỉ thì thầm đủ để nàng nghe, bấy giờ, thứ ánh sáng trẻ trung của ngôi sao mới  đang mở ra một cảnh trí mới, chẳng biết có xảy ra thật  thế không, hay chỉ là những ký ức sách vở, bấy giờ là tôi với nàng đã nhìn thấy được buổi uyên nguyên của trời đất, dường như em vừa nghe thấy có tiếng nổ lớn, nàng nói, tôi cũng nghe thấy thế, tôi nói, và bất chợt bầu trời  trên đầu tôi và nàng  như đang phình ra, lũ sao trời như đang chạy trốn nhau,  một vũ điệu sao, em có nhìn thấy không, tôi hỏi, bấy giờ, chẳng ai bảo ai, tôi với nàng  cùng ngửa mặt lên bầu trời đêm để hứng lấy những âm vang lặng lẽ cùng những nhan sắc lộng lẫy của vũ trụ vô biên, những làng mạc, những thành phố của sao, cùng những ốc đảo của thiên hà đang bồng bềnh trong thứ vũ điệu trộn lẫn giữa ngẫu nhiên với tất nhiên, đam mê và cuồng nhiệt là được cột chặt vào nhau, còn những đám tinh vân lang bạt kỳ hồ, thứ bụi thời gian  vô danh vô kỷ là luôn lãng đãng quanh các thành phố và các  làng mạc  của sao như để làm tăng thêm vẻ lãng mạn của tạo hóa, lạnh,  nàng chợt kêu, quả tình bấy giờ  tôi cũng cảm thấy lạnh, bấy giờ bầu trời bất chợt phình to đến độ  chỉ còn trông thấy một khoảng không trống rỗng, đã xảy ra tận thế  sao, nàng hỏi cái câu hỏi trần thế hay hỏi mỗi lúc cảm thấy bất an nhưng nàng lại lộ nỗi hân hoan, tôi bảo không phải tận thế mà là sự chuyển đổi của tạo tác, em hiểu ra rồi, là những cách tồn tại,  nàng thì thầm kiểu sách vở, những chiếc phểu đen ngòm là đang hiện ra trước mắt tôi với nàng, con quái vật của trời đất  như đang hút sạch mọi thứ, và bấy giờ trước mắt tôi với nàng là một cảnh suy tàn, chẳng lẽ nhân loại này chỉ là một thứ phiên bản của cuộc va đập  nguyên thủy, lỗng lẫy và suy tàn… giọng nàng đầy nỗi sợ hãi, có lẽ là vậy, tôi đáp, và cũng cảm thấy có nỗi sợ hãi to lớn nào đó đang xâm chiếm trong ý thức của mình, bấy giờ thì bằng một thứ thân thiện vô thức, tôi với nàng cứ bám lấy những ngôi sao chiếu mệnh của mình như bám lấy những chiếc phao mỏng manh đang trôi dạt giữa phong ba bão táp, lúc mặt trời soi rõ núi rừng, cuộc va đập có phần hòa hoãn hơn, tôi và nàng quyết định xuống núi để xem thử ai còn ai mất, ở lưng chừng núi có hai xác chết, chẳng phải xác người, mà là xác của mẹ con chúa sơn lâm,  con cọp con là chết trong tư thế đang bám chặt lấy cổ mẹ, tôi và nàng lật xác bọn chúng coi thử thương tích thế nào, thấy thân thể của mẹ lẫn con đều nguyên vẹn nên biết là chết vì sợ hãi, rồi chúng tôi chia tay nhau, nàng nói còn phải tiếp tục đi tìm cái có thể, từ đấy chúng tôi luôn gắn bó nhau, khi là từ một miền đất nào đó trên thế giới nàng viết cho tôi, khi là cuộc chuyện trò trong thinh lặng, 

 

 

[Hai Mươi Lăm]

không phải nhân loại ngày nay, mà nhân loại thuở trước xa kia cũng đã có một khoảng cách văn hóa ghê gớm đối với cộng đồng người làng tôi, trong lúc các nước Âu Mỹ đã có báo hình và báo nói, ở làng tôi, cả trẻ em lẫn người lớn mới bắt đầu học chữ, tiếng nói của dân tộc tôi có tự thời lập quốc, hay cũng có thể có tự trước thời chưa lập quốc, nhưng ghi thành chữ viết, quốc ngữ, thì trước xa kia chỉ bắt chước theo lối chữ Tàu cổ, phải nói ngày nay có thứ chữ viết lưu hành trên khắp mặt đất là nhờ mấy ông cha đạo cố đạo theo chân người Pháp thực dân đến đất nước tôi  truyền giáo đã nghĩ ra cái cách chế biến từ mẫu tự La Tinh,

qua nghe nói là ông cố đạo người Pháp, ông Đắc Lộ, đã chế ra chữ quốc ngữ phải không, 

bác Hai Ngộ hỏi tôi, thì ra bác ấy cũng biết ông Alexandre de Rhodes, người có công lớn trong việc hình thành chữ viết của đất nước tôi, người đã biên soạn từ điển  Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, từ điển Việt-Bồ-La xuất bản ở Roma năm 1651, đã hệ thống hóa cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La Tinh, bác Hai Ngộ, người đàn ông trong làng, có cái may là trước khi ông ấy mất tôi đã có mấy lần trò chuyện với ông về cái quá khứ có vẻ đặc biệt của ông, người đàn ông một thuở tôi cứ la cà theo xem thử có cái gì trong cổ họng ông đã làm phát ra tiếng kêu âm u buồn bã, một thuở, ông ấy và những người cùng lớp ông ấy, những người đã con đàn cháu bầy mà còn đi học chữ, như những kẻ ngoại hạng trong nghĩ ngợi của tôi, đứa trẻ quê cũng sắp cắp sách đến trường, thuở tôi nhìn thấy người ta đem bùn non quét lên những vách tường nhà trong làng thành những ô xinh xắn rồi dùng thứ mực mài bằng những viên gạch bể lấy ở ngôi miếu làng đổ nát để vẽ lên đó hình những em nhỏ và những người lớn tay cầm những hũ mực và bút viết dơ lên cao, khi đã có vốn liếng kiến thức, và nhớ lại, tôi vẫn thấy như còn nguyên niềm hứng thú, thuở ông cụ Hồ kêu gọi dân tộc tôi hãy cùng đứng lên chống ba thứ giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt, cái buổi từng đêm tôi nghe tiếng đánh vần quốc ngữ như thứ giai điệu buồn bã phát ra từ  ngôi trường bình dân học vụ mái tranh trống trước trống sau ở gần nhà tôi, rồi người đàn ông thuở ấy tôi ngưỡng mộ theo xem thử làm sao ông đã đánh vần được chữ viết của đất nước tôi  đã ngồi đàng hoàng trước tôi để luận bàn về cái quá khứ đầy cảm động,

tiếng ta còn thì nước ta còn phải không chú, ông gì đó, qua quên tên, đã nói như vậy, mà thiệt, tiếng nước ta mà viết thành chữ viết thì nó còn mãi thiên thu, 

bác Hai Ngộ nói, và đi lấy cái hộp gỗ nhỏ đem ra mở cho tôi xem, một hũ đựng mực bằng thủy tinh tôi nhớ là được chế tạo ở  cơ sở làm chai lọ ở cái thị trấn nghèo phía bắc huyện tôi thuở ấy, một cán bút được chuốt từ một nhánh cây lồng mức, cả cán bút lẫn cái bút sắt đều đã ngã  sang  màu bùn non, bác Hai Ngộ săm soi thứ vũ khí chống giặc dốt của mình buổi ấy và nói với tôi rằng bác cũng đã đến lúc sắp theo ông bà, đến lúc sắp xuống mồ bác mới nhận ra những thứ ấy cũng quí như cây cày cây cuốc,

lúc cầm cây cày theo lũ bò trên ruộng qua cũng phải ôn luyện, văn ôn võ luyện mà chú, chữ nước ta khi ráp vần mới thấy nó tài tình làm sao, quay qua quay lại là có con chim con cá, 

thì tôi vẫn còn nhớ, buổi trưa hè ấy, trưa, tôi cũng không ngủ như bác Hai Ngộ, vừa nghe tiếng u ô chỗ trường bình dân học vụ là tôi phóng liền tới đó, tôi ngồi núp chỗ bụi chà là chỗ đầu hè trường học,  bác Hai Ngộ, không, một con cuốc đang gọi mùa, uô..ông  uô…ôc…tới giờ tôi như còn thấy rõ, lúc bác ấy đánh vần thì  cái cục gì đó cứ chạy lên chạy xuống chỗ cổ họng bác ấy,

chữ nước ta khi ráp vần mới thấy nó khúc khuỷu làm sao, vần xuôi, như cha, mẹ, cô, dì, thì ít khúc khuỷu gập ghình, nhưng lúc đụng tới vần ngược, nhiều lúc qua thấy như sắp chết đến nơi, rồi một hôm, nhờ phúc ông bà qua đã bước được vào cõi u linh, chú biết không, cứ nghĩ đến tiếng kêu của con ếch trên đồng làng là qua thuộc được đám vần ngược chết tiệt ấy, uyệch…uyệch, uyệt…uyệt, cứ nghĩ đến tiếng kêu đó của lũ ếch là qua nhớ hết đám vần uyê nh, uyê ch, uyên, uyêt, 

trong cái thế giới mênh mông chứa muôn vàn sự vật này lại có một người cày ruộng ở làng tôi, vào lúc cuối đời, đã nhìn thấy một mối liên quan có tính triết học giữa ngôn ngữ của dân tộc tôi với ngôn ngữ của một loài không có ngôn ngữ theo nghĩa chân xác nhất của từ này, 

 

nhưng đây là chuyện khi qua còn tập đánh vần quốc ngữ, còn khi qua đã đọc viết thông thạo lại là chuyện khác, chữ nghĩa giúp qua biết trên đời này đâu chỉ có hạng cày ruộng quê mùa như người làng mình, mà còn có những bậc anh hùng xuất chúng, còn có những bậc thuyền quyên kỳ lạ, 

bác Hai Ngộ đang nói bỗng đánh đùi cái bép, và gần như thét lên,

thằng cháu nội của qua đó,

thì ra, ông vừa nhớ ra hôm ông chăm thằng cháu ông cho mẹ nó ra đồng làng, thằng cháu ông đã xé nát cuốn truyện Lục Vân Tiên ông đọc gần nát hết chữ nghĩa trong đó, cuốn sách trong những năm tháng đi cày ông đã làm sách gối đầu giường, chữ trải lên đất nước tôi thành rừng cây, ao hồ, sông biển, tôi ngồi nhìn bác Hai Ngộ và cứ nghĩ đến khái niệm văn hiến, thứ vật thể không thể nói ra hết bằng lời nói, không thể viết ra hết bằng chữ viết, lại được làm bằng những thứ có vẻ như nhỏ nhặt dễ lãng quên vào cuộc tồn sinh náo nhiệt, như tiếng đánh vần quốc ngữ trong buổi trưa hè của một người suốt đời cầm cày, suốt đời quanh quẩn trong cái cộng đồng nhỏ bé người làng tôi mà cũng có lúc nhìn thấy được cõi u linh, tôi không hiểu làm sao lại có được những bước nhảy vọt như thế trong cuộc lao khổ, tôi cũng không hiểu làm sao cái cộng đồng người  nhỏ bé dưới chân dãy núi tôi yêu từ buổi thâu đêm nghe tiếng đánh vần quốc ngữ như tiếng con cuốc gọi đêm đã vọt lên được buổi có người đứng lên, nhìn thẳng vào mặt tay trưởng làng tham lam, hống hách, lừa mị để nói một câu vô cùng thông thái: người làng ta bây giờ không phải vẽ cò vẽ cuốc gì cũng nghe theo,

 

 

[Hai Mươi Sáu]

có những bước nhảy vọt đáng kinh ngạc, nhưng cũng có những trắc trở như sự thụt lùi não lòng, công đồng người nhỏ bé dưới chân dãy núi tôi yêu nó là nụ cười, là nước mắt, nước mắt của chú Bảy Thảm, nước mắt của chú Mười Lỡ, những cái tên người nghe như định mệnh, tiếng con chim báo thức trên hòn  núi mồ côi phía tây làng tôi cũng như một định mệnh, tự thuở nào tôi không biết, dãy núi phía nam làng tôi bỗng trích ra một mảnh đem đặt ở phía tây làng tôi, tôi sinh ra đã thấy hòn núi mồ côi ở phía tây làng mình, Chà Rây, có phải cái tên nghe có vẻ Champa hay không, tôi không biết, chỉ biết con chim báo thức trên hòn Chà Rây có tiếng kêu được dịch ra tiếng người, trăm trâu khó cột, đấy là phiên bản đầu tiên trong truyền thuyết ông Cả Lựu tôi đã nói trong sách Những Tin Tức Về Một Ngôi Làng, cho đến khi làng có sự cố mang tính sử thi, người làng tôi đã dịch tiếng chim theo cách khác, không phải trăm trâu khó cột, mà thương ai xót ruột,  thương ai nhỉ, thương chú Bảy Thảm, hay thương chú Mười Lỡ, tôi không biết, gần năm mươi năm hai con người ấy bỗng như hai kẻ xa lạ cùng sống trong ngôi làng  nơi mình sinh ra, gần năm mươi năm người làng tôi vẫn dùng phiên bản dịch thứ hai tiếng con chim báo thức trên hòn núi mồ côi như thể để hàn gắn cuộc đổ vỡ mang tính lịch sử giữa hai con người ấy, sáng nay nghe con chim báo thức trên hòn Chà Rây kêu lạ lắm, thương ai xót ruột, sáng ra đồng làng gặp chú Bảy Thảm hay gặp chú Mười Lỡ, ai cũng nói ra câu ấy, và chờ  một tín hiệu tốt lành, nhưng cái vết thương ấy vẫn cứ âm ỉ trong hai con người vốn là bạn cày chí thiết, trong cái bầy đàn cày ruộng dưới chân dãy núi tôi yêu có hai con người cố giữ đừng để gặp mặt nhau khi đi ra đi vào làng, nhưng lỡ có gặp mặt nhau thì vẫn xem nhau như những  kẻ xa lạ, trong cái bầy đàn bao nhiêu đời no đói có nhau có hai con người bỗng trở nên thù hận nhau, trong tận cùng ký ức của tôi thì đêm mùa hạ ấy như chuyện cổ tích, không phải mẹ kể cho tôi nghe, mà xảy ra ở trong làng tôi, người lớn nói với bọn trẻ chúng tôi là xử án, hồi ấy chú Mười Lỡ còn trẻ lắm, người lớn nói với bọn trẻ chúng tôi là làng xử tội cường hào, ông Lên, cha của chú Bảy Thảm, người có ruộng đất cho người làng làm rẽ [tá điền] là cường hào, lũ bạn tôi chúng nó nghĩ thế nào tôi chẳng biết, nhưng tôi thì lúc bấy giờ vừa thấy háo hức vừa thấy sợ, mấy tiếng cường hào nghe lạ lắm, cứ kích thích óc hiếu kỳ của tôi, nhưng cái cảnh diễn ra trước mắt tôi lúc bấy giờ nó buồn làm sao ấy, như sắp có chết chóc xảy ra ấy, cái cảnh ở sân đình làng, đèn khối dầu rái thắp sáng  sân đình làng, người ta làm sẵn vành móng ngựa tự hồi nào, vành móng ngựa đóng bằng tre, mãi tới lúc người làng tới đông đủ, chú Mười Lỡ trưởng làng [hồi ấy gọi là trưởng thôn] đã ngồi vào ghế chủ tọa phiên tòa, người ta mới khiên cái vành móng ngựa ấy tới, đề nghị đưa phạm nhân vào, chú Mười Lỡ nói lớn, mấy người con trai tự vệ của làng dẫn ông Lên, cha của chú Bảy Thảm, đến đứng vào vành móng ngựa, ký ức tuổi thơ tôi làm sao chứa  nổi hết những biến cố bấy giờ đối với tôi là quá lớn [qúa nhiều những ngôn ngữ nghe rất lạ, quá nhiều những hành động thấy rất lạ] ông Phạm Văn Lên là kẻ đã gây ra cảnh áp bức bóc lột dân làng ta, kẻ có tội nay phải đền tội, tôi chỉ nhớ được cái nội dung chính của bản án, chú Mười Lỡ đứng đọc, có người soi đèn cho chú ấy đọc, rồi người làng đứng lên hô to: đả đảo cường hào ác bá, tôi bắt đầu thấy hãi khi người làng bắt đầu ném đất đá vào cha của chú Bảy Thảm, đồ phản động, đồ cặn bã xã hội,  mới đầu thấy cái cảnh người trong một làng đi ra đi vào thấy mặt nhau, bỗng ông Lên bị trói, bị chửi rủa, tôi cứ nghĩ sao người lớn trong làng bỗng nghĩ ra cái trò chơi kỳ quái thế, nhưng khi biết  đấy là chuyện thật, tôi cảm thấy vô cùng kinh hãi, tôi cũng chỉ nhớ được bấy nhiêu, vì sau đó người ta đưa cha của chú Bảy Thảm lên xã để cùng với những cường hào khác ở trong xã học tập chủ trương đường lối của cách mạng, cha của chú Bảy Thảm học tập xong trở về thì ngã bệnh, chỉ nằm xuống đâu mươi hôm thì mất,  có thể vì tuổi già cũng có mà vì tức giận và xấu hổ cũng có, mấy năm sau đó, tôi không còn nhớ chính xác là mấy năm, chính phủ của ông cụ Hồ giao làng tôi lại cho chính phủ ông Diệm, chú Bảy Thảm thay cho chú Mười Lỡ làm trưởng làng [bấy giờ cũng gọi là trưởng thôn], hằng đêm tôi nghe cha tôi buông tiếng thở dài, có điều gì sắp xảy ra hỡ cha, tôi theo gạn hỏi, cha tôi không nói, bấy giờ thì tôi đã đi học cấp một ở trường làng, đã biết chút ít về chuyện đất nước tôi bị chia đôi, chú Bảy Thảm đã cho ngăn đình làng tôi làm đôi, một bên làm trụ sở hành chánh của làng, một bên làm nhà giam, chú Mười Lỡ là người đầu tiên bị chú Bảy Thảm giam ở đình làng, tôi nấp ở gốc cây đa chỗ hông đình làng thấy thím Mười Lỡ đem cơm cho chú Mười Lỡ, chú Mười ngồi ăn cơm ở bên trong nhà giam, còn thím Mười thì ngồi ở bên ngoài cửa song sắt khóc, im đi thôi, khóc lóc cái gì, tôi nghe ai đó trong các chức sắc của làng ở gian kế bên nói lớn, tôi thấy thím Mười Lỡ kéo lai quần lau nước mắt, rồi chú Bảy Thảm đã chuyển chú Mười Lỡ lên tòa án huyện, tòa tuyên chú Mười Lỡ bảy năm tù giam vì tội làm gián điệp cho chính phủ ông cụ Hồ,

mọi con sông trên mặt đất vẫn tiếp tục đổ ra biển, chỉ có đất nước tôi thì xảy chuyện lớn, chính phủ ông Diệm bị đổ, ông Diệm bị giết chết, chính phủ ông Diệm đổ kéo theo chức trưởng làng của chú Bảy Thảm đổ, kéo theo cái nhà giam nhốt chú Mười Lỡ đổ, hai con người ấy lại gặp nhau trên cánh đồng làng dưới chân dãy núi tôi yêu tự buổi ấu thơ, cuốn biên niên sử làng tôi mở ra một trang mới, trong đó có hai con người vốn là bạn cày chí thiết, gặp nhau trên đồng làng chẳng dám chào hỏi nhau, gần năm mươi năm hai con người cùng lặng lẽ trên cùng mảnh đất là nơi chôn nhau cắt rốn của mình như thể để gẫm lại cho thấu đáo, cho cho cạn cùng, cái nghĩa lý của cuộc đời, rồi cái ngày vô cùng mới mẻ ấy đã đến, hôm chú Bảy Thảm giỗ ông Lên, cha của chú ấy, lúc mọi người đang chuyện trò nhắc lại những tháng năm ruổi ro trong đời ông cụ, chú Mười Lỡ nách cắp chai rươu đế lù lù tiến vào sân nhà chú Bảy Thảm, vận làng ta vẫn còn đỏ, các ông ạ, tôi nghe chú Chín  Quờn thì thào, rồi mọi người cùng la lên, trời đất ơi, ông thôn, là người ta vẫn quen gọi chú Mười Lỡ với chú Bảy Thảm là ông thôn, rồi chú Bảy Thảm với chú Mười Lỡ ôm nhau, tôi thấy nước mắt của hai người chảy ra, nhưng dường như những cuộc vui trên đời này thì ngắn lắm, ít lắm, sau đám giỗ ấy, hai ông già ấy đã rủ nhau nằm xuống, tuổi già mà, chỉ nằm xuống mấy hôm thôi,  tuổi già mà, chủ Bảy Thảm chết bữa trước , thì bữa sau đến lượt chú Mười Lỡ chết, có phải là hai con người ấy đã bước ra khỏi cuốn biên niên sử của làng, tôi không biết,

 

 

[Hai Mươi Bảy]

cha tôi chép trong văn tập Tan Rã của ông: hội nghị Genève nhóm phiên cuối cùng để xác nhận những thõa hiệp đã đạt được, chủ trì phiên họp là trưởng phái đoàn Anh, ông Anthony Eden, cuối cùng, ngày 20.7.1954, một hiệp định đình chiến  đã được ký kết dưới sự dàn xếp của các nước lớn Anh, Mỹ, Pháp, Liên Xô… hiệp định gòm 47 điều và một Phụ lục, đại lược, định một giới tuyến quân sự từ cửa sông Bến Hải, theo dòng sông đến tận làng Bồ Hô Su và biên giới Lào Việt, lập một khu phi quân sự  5 cây số bề rộng bên này và bên kia giới tuyến để làm “khu đệm”, thời hạn tối đa để rút quân hai bên là 300 ngày, ngày giờ ngưng bắn: Bắc Việt, 8 giờ ngày 27.7.1954, Trung Việt, 8 giờ ngày 1.8.1954, Nam Việt, 8 giờ ngày 11.8.1954, trong khi chờ đợi tổng tuyển cử, mỗi bên sẽ phụ trách quản trị hành chánh ở khu tập hợp quân đội thuộc quyền, trong thời gian 300 ngày dân chúng được tự do di cư từ khu này sang khu thuộc bên kia, vậy là đất nước tôi đã hết chiến tranh, nhưng lại mở ra một khúc sử buồn, giang sơn tổ quốc tôi bị phân đôi,

 

[Hai Mươi Tám] 

thứ lịch sử da beo vẫn cứ đeo đẳng cuộc sống người làng tôi, những lý thuyết, những chủ thuyết vẫn cứ loang lổ trên mảnh đất dưới chân dãy núi tôi yêu, ngày quốc gia đêm giải phóng, một cách tổng lược hệ hình lịch sử hay hệ hình tư tưởng, tôi không biết, cái hệ hình ấy đã áp lên cuộc sống người làng tôi buổi ấy, buổi ấy lũ chim gõ kiến ngày ngày vẫn bay đến đậu cây vông đồng chỗ đầu làng tôi tiếp tục viết thứ âm nhạc làm ra thực phẩm, cái cách mỏ con chim chạm vào những mảng gỗ khô vốn là những mảng cây gìà lão của thân vông đồng khiến cho một con ong, hay một anh sâu bọ nào đó, phải chui ra khỏi tổ của mình, mảng cây khô trên thân cây vông đồng không còn là chốn bình yên, thức ăn của con chim gõ kiến là hệ quả của thứ âm nhạc của một loài chim trời chưa được chép vào bất cứ một công trình  nghiên cứu âm nhạc nào, loài chim đã sống trên thứ thực phẩm lấy từ thứ đời sống da beo trên các loài cây đang đến buổi già lão, cuộc sống của người làng tôi thì không thể nói là già lão, lớp người này nằm xuống  lớp người khác tiếp theo, đấy là một chuỗi dài của tồn tại, và vẫn cứ diễn  ra ở đấy thứ lịch sử  da beo, ngày quốc gia đêm giải phóng là thứ lịch sử da beo, da beo cho tới cái cách nghĩ ngợi trong mỗi người làng tôi, buổi sáng, mặt trời lên, gió đêm trên dãy núi phía nam làng vẫn còn thổi lại, cho đến mùa nắng nóng, sáng ra làng vẫn cứ có thứ cảm giác lành lạnh của gió núi,  một ngày mới, sáng ra, tất cả đều có vẻ như trong quĩ đạo bình yên, người cày lùa bò ra ruộng, em bé đến trường, có cả tiếng hát của chàng trai trẻ đương yêu nào đó, và mấy người làng đương là  đương chức của làng rảo bước trên con đường làng đến nơi làm việc của làng, mọi người có vẻ đều có thứ cảm tưởng tất cả những thứ đang diễn ra chung quanh mình sẽ mãi như thế, nhưng đêm xuống, khuya, có tiếng chó sủa trong làng, ông cụ rỉ tai bà cụ: lính giải phóng đã xuống làng rồi đấy bà, lính giải phóng  từ  dãy núi phía nam làng tôi xuống, rồi có tiếng súng nổ, bà cụ lại rỉ tai ông cụ: có đánh nhau rồi đấy ông, và có thể là mọi người đều nghĩ không chắc gì mình sống qua hết đêm nay, cái cách nghĩ ngợi da beo ấy nó chì chiết người làng tôi buổi ấy, không phải chì chiết, mà làm nát lòng, ngày, có thể lùa bò đi trên con đường quan chạy qua làng, nhưng đêm đến, không phải chỉ con đường quan chạy ngang qua làng, mà tất cả những con đường trong làng, như những lối đi dẫn đến chết chóc, đêm, tất cả những con đường trong làng đều là chốn cấm địa, cái cách da beo ở những con đường làng tôi một thuở làm cho làng tôi đêm trở thành đất chết, nhưng cái cách da beo ở nhà chú Chín Quờn  buổi ấy là thuộc phạm trù xã hội học lịch sử, tức phải nhìn cái cách da beo ấy qua con mắt của một nhà xã hội học công tâm, hai đứa con trai của chú Chín Quờn buổi ấy là những đứa con trai đang sống trong thứ lịch sử da beo,  thằng đầu được chú Chín Quờn bán thóc cho đi học đường hoàng, bóp bụng cho con đi học, buổi ấy, ở làng tôi có người đỗ tú tài phần một là cũng bằng người đỗ hương cống [cử nhân] thời xưa, hay là cái cách tôn vinh hơi quá mức  của người làng đã làm cho thằng con trai đầu của chú Chín Quờn  nó phổng mũi lên, coi như cháu là nhứt thiên hạ, coi như cháu là chẳng có đứa nào trong làng mình địch nổi…đấy, người ta đã dùng những lời lẽ như thế để bơm thằng con trai đầu chú Chín Quờn phồng to lên, có nghĩa là nó không còn muốn tiếp tục học để thi lấy tú tài toàn phần, mà tình nguyện vào lính quốc gia, có bằng tú tài phần một sau khi học xong trường sĩ quan thì mang lon chuẩn úy, đi lính để làm quan, cái lon chuẩn úy nơi ve áo thằng con trai đầu chú Chín Quờn nó là biểu thị của thói háo danh, hay là biểu thị của lý tưởng quốc gia, tôi không biết, nhưng nó là thứ da beo trong tính cách của một con người, nhưng thằng út của chú Chín Quờn là chuyện khác, hình như đấy không phải là kiểu chọn lựa đường hoàng như thằng anh nó, mà chỉ là hùa theo một trào lưu, lên rừng theo quân giải phóng để giải phóng đất nước  nó là trào lưu cách mạng ở làng tôi buổi ấy, “ nhất xanh cỏ nhì đỏ ngực”, lời ấy một thuở nung nấu những tâm hồn tuổi trẻ ở làng tôi, thằng út của chú Chín Quờn là đứa trẻ vị thành niên trong những đứa trẻ vị thành niên ở làng tôi đã lên rừng theo quân giải phóng buổi ấy [chú thím Quờn đẻ thằng con trai đầu, tiếp theo đẻ hai đứa con gái, tiếp theo là đẻ thằng út] hai thằng con trai của chú Chín Quờn đã tham gia việc đánh nhau ở những mặt trận  nào, ngày nay chuyện ấy không còn quan trọng, và có lúc nào hai thằng con trai của chú Chín Quờn cùng chung một mặt trận hay không, ngày nay chuyện ấy cũng không còn quan trọng, ngày nay thì chú thím Chín Quờn vẫn giỗ hai đứa nó trong một ngày, bỡi hồi đó, sáng hôm đó  xã thôn báo tin cho chú thím Chín Quờn biết thằng con trai đầu của chú thím ấy đã tử trận và mất xác trong một trận đánh nào đó mà người ta không nói cho chú thím ấy biết, thì tối hôm đó, lính giải phóng trên núi xuống cho chú thím ấy hay tin thằng út chú đã hy sinh và mất xác trong  một trận đánh nào đó mà bọn họ cũng không muốn cho chú thím ấy biết, ngày nay, ngày giỗ hai đứa con mình, chú thím Chín Quờn vẫn mời người trong làng đến dự, có vẻ như để được tiếp tục  nghe những lời an ủi của bà con trong làng cho đỡ tủi thân, lần nào đến dự đám giỗ hai đứa con chú thím Chín Quờn tôi cũng thấy hai đứa nó ngồi vui cười trong hai tấm ảnh trên bàn thờ ông bà, hay đấy cũng là thứ vui vẻ da beo, tôi không biết,

 

 

[Hai Mươi Chín]

nhưng cuộc chơi vẫn cứ diễn ra, dai dẳng và tàn nhẫn, bấy giờ ông Khán là người đứng đầu làng tôi, thuở làng tôi làm hợp tác xả sản xuất lúa thì ông Khán như nhà thiết kế đời sống của dân làng, từ sự cơm áo cho đến sự nghĩ ngợi, sự đi đứng, ngủ nghỉ, tất cả mọi người phải tham gia lao động đúng giờ, ông Khán nói, đấy không phải lời nói bình thường, nhưng có tính triết học như khi Heraclitus nói tất cả là nước, với Heraclitus, tất cả có nghĩa là nước, với ông Khán, tất cả mọi người phải tham gia lao động đúng giờ có nghĩa là tồn tại, lao động là tồn tại, ngược lại là sự tự hủy diệt, giờ lao động trên đồng ruộng được qui định bằng tiếng kẻng, tiếng kẻng ra đồng, và tiếng kẻng trở về nhà, ngày ngày ông Khán đích thân đánh kẻng…âm vang ấy bỗng xen vào cuộc đời ta như một biến cố ngút trời, những lời ấy cứ vang lên mỗi sáng mỗi chiều, nắng cũng như  mưa, chỉ nghe rặt mỗi thứ âm điệu vừa như thân thiết vừa như dọa dẫm, từ cái ngôi nhà cuối làng như trạm chuyển tiếp giữa thực và mộng, những âm vang ấy theo những ngõ ngách trần gian như màu khói chiều hôm để lại từ một triều đại đổ nát nào đó hay như tiếng lọc cọc ngựa xe của cuối buổi văn minh nào đó, chúng tràn vào ý thức của ta, có vẻ như tất cả sức phản kháng trong ta đều bị dập tắt, cha tôi chép trong văn tập Tan Rã của ông, mà thật, không theo nó, tiếng kẻng, coi như tự hủy diệt, bỡi miếng cơm ăn hằng ngày được tính từ giờ lao động hằng ngày, hằng ngày ông Khán đích thân ghi công điểm lao động cho dân làng, công điểm, những từ ấy chẳng phải nhóm từ bình thường, mà như thứ từ vựng thiêng liêng thuộc nền văn hóa đang diễn ra trong cộng người làng tôi, công điểm là cách gọi khác của miếng cơm ăn, ngay từ hôm thống nhất đất nước, hôm cái chính phủ cai trị dân làng tôi gần hai mươi năm chính thức không còn nữa, ông Khán bỗng từ đám bạn bè cày ruộng của ông bước ra như  một nhân vật sáng giá của làng, đồng chí Khán sẽ là người dẫn dắt bà con làng ta trong công cuộc xây dựng đất nước quê hương, cán bộ ở trên về họp dân, giới thiệu trưởng làng mới, và trong mùa đầu làm hợp tác xã sản xuất lúa, ông Khán cho họp dân làng, cũng bắt đầu như cách bắt đầu của cán bộ cấp trên: các đồng chí sẽ là những người làm giàu đất nước quê hương của chúng ta, ông Khán gọi dân làng tôi là đồng chí, mùa sản xuất đầu tiên của hợp tác xã trồng lúa, hết thảy người làng đều tham gia lao động đúng giờ, có nghĩa người nào cũng có mặt trên đồng ruộng đúng tám tiếng đồng hồ mỗi ngày, nhưng khi qui ra thóc,  mỗi người lao động chỉ lĩnh được số thóc đủ ăn trong một tháng, thằng cha ấy cũng chỉ mới  biết đọc biết viết với theo con bò trên ruộng như bọn ta chỉ vì được lòng cấp trên sao đấy mới được đứng ra cầm đầu bọn ta, đám bạn bè cày ruộng của ông Khán chỉ âm thầm nói với nhau về nguyên nhân thất bại trong sản xuất, không phải vì bọn họ sợ ông Khán, mà vì sợ ngọn gió cách mạng lúc bấy giờ đang thổi qua làng tôi mạnh quá, thực tình, bấy giờ người làng tôi cũng mong ngọn gió ấy đem lại cuộc sống mới mẻ hơn, mong mà sợ, chẳng biết nó cuốn mình đi tới đâu, nhưng ông Khán bảo  phải học mới làm được, ai không học đói ráng chịu, rồi cấp trên đã về mở lớp giảng cho người làng tôi về cách thức trồng lúa trong thời đại mới, ban ngày mọi người ra đồng làm lụng, đêm tập trung ở cái ngôi nhà ở cuối làng, trụ sở làng, để học, lúc đầu thằng bạn nối khố của tôi còn co cưỡng, tao lại đi học thằng cha  đó hay sao, nó nói với tôi nhất định là nó không học người cán bộ cấp trên đó, nhưng sau đó chắc là sợ đói, đêm lại mò đến trụ sở của làng để học về cách cày ruộng trong thời đại mới, bài học cày ruộng thì dài, không thể  học thuộc, nên người của cấp trên đã trích ra cái cốt lõi của nó cho mọi người học, sau khi nghe giảng,  người làng sẽ học thuộc cái cốt lõi đó, phải thuộc lòng cốt lõi của cách cày mới có thể cày, người của cấp trên nói, vào cái đêm coi như chẳng thể nào quên trong cuộc đời lận đận của những kẻ cả đời lận đận với khoảnh ruộng con bò, đêm lịch sử của làng, ngày nay, ruộng đất trong nước không thuộc bất cứ  cá nhân nào hay tổ chức nào, đất đai là thuộc sở hữu toàn dân, mọi người dân đều là chủ đất đai của đất nước mình, người của cấp trên đọc đi đọc lại cái cốt lõi của việc cày, có con tắc kè kêu ở cây vông đồng chỗ đầu làng, và có người làng có ý kiến: xin hỏi, kể từ nay, có phải đến mùa cày thì cả nước cùng vác cày xuống ruộng hay không, người của cấp trên bảo sở hữu toàn dân là khái niệm về việc làm chủ đất đai chứ không phải cả nước cùng cày một khoảnh ruộng, lại có tiếng con tắc kè kêu chỗ cây vông đồng, và lại có người làng có ý kiến: vậy thì xin nói rõ ra là cày cách sao…rồi, như con cuốc gọi đêm, người của cấp trên lại đọc to lên cái cốt lõi của việc cày, ngày nay, ruộng đất trong nước không thuộc bất cứ  cá nhân nào, con cuốc gọi đêm mửa máu, chết, nhưng người của cấp trên không mửa máu chết, chỉ lăn ra giữa trụ sở của làng mà ngủ, sau một ngày làm lụng mệt nhọc, những kẻ cả đời lận đận với con bò khoảnh ruộng đến học cày theo cái cách cày của thời đại mới cũng lăn ra ngủ, ông Khán cũng lăn ra ngủ, tôi với thằng bạn nối khố của tôi cũng lăn ra ngủ, hết thảy là đều lăn ra ngủ cho đến sáng bét… may quá, mọi người còn ngủ cả, thằng bạn nối khố của tôi rỉ tai tôi, và kéo tôi trốn ở bụi chuối sau  trụ sở làng, lúc mọi người về hết, nó lại kéo tôi trở vào trong trụ sở, thằng bạn nối khố của tôi thượng lên ngồi ở ghế  ông Khán ngồi, và bắt tôi xếp bằng ngồi dưới đất làm dân làng để nghe nó giảng cho nghe về lịch sử lận đận của những kẻ cày ruộng,

 

con bò thì suốt buổi cứ vòng đi vòng lại nơi khoảnh ruộng nhỏ bé, nên những kẻ cả đời lận đận với con bò khoảnh ruộng cũng phải vòng đi vòng lại theo con bò cho đến suốt buổi, nói điên cũng không phải, mà nói không điên cũng không phải, bỡi vì cứ phải bước lòng vòng theo con bò trên ruộng, ngày thì lận đận nơi khoảnh ruộng trên đồng làng, đêm lại lận đận với những giấc mơ chẳng bao giờ thực, đang mơ thấy mình trở nên giàu có, giữa chừng  thức giấc biết mình là kẻ cả đời lận đận với con bò khoảnh ruộng, lịch sử là một cuộc sai lầm và sửa sai lầm, nếu không phải là thế thì đã tắt thở từ lâu, tự thời cổ sơ, thời chó chạy cuốn bụi mù, con người đã sai lầm, tự buổi con người lợi dụng cái mũi thính hơi của lũ chó để săn bắt con thú trên rừng thì con người đã sai lầm trong cách chia miếng thịt rừng cho đám thợ bạn và cho lũ chó, những kẻ đã đổ mồ hôi và máu trong những cuộc săn đuổi, ông bầu săn có lúc đã bị lũ chó bỏ rơi bỡi vì ông bầu săn chỉ nghĩ đám chó đi làm công việc săn thú cho mình chỉ là những con chó không hơn không kém, có những sai lầm được sửa, có những sai lầm chưa bao giờ sửa được, xưa ở phương bắc có kẻ chăn dân muốn biến xứ sở của mình thành cái doanh trại khổng lồ cho những người cày ruộng, cuối cùng những người cày ruộng nói phải ở cái nhà riêng như tổ tiên họ đã ở thì mới đi cày ruộng được, trong lịch sử lận đận của những kẻ cày ruộng có bao nhiêu cuộc dấy binh của người cày ruộng cũng chỉ vì cái cách cày ruộng, dường cuộc cách mạng đá mới, cuộc cách mạng về trồng trọt mới nghe nói thì như dỡn chơi ấy lại như một thứ nền tảng của cuộc sống nhân loại, bỡi nó làm ra thứ vật liệu cơ bản của sự sống, lúa gạo, thứ vật liệu cơ bản ấy của sự sống có làm ra được hay không là tùy thuộc vào cái cách cày ruộng kẻ chăn dân cho phép người cày rưộng sử dụng, tối thiểu là phải cho họ cái cách cày mà họ thích, tức tối thiểu phải cho họ cái áo để mặc, áo rộng quá sinh áp bức bất công, chật quá thì sinh những cuộc dấy binh,

 

tôi cũng thật bất ngờ về sự thành thạo của thằng bạn tôi  về lịch sử cày ruộng của loài người, bỗng dưng thằng bạn nối khố của tôi lại nói ra thứ kiến thức của một kẻ chăn dân nói về lịch sử lận đận của những người cày ruộng,

nhưng là mày cứ tưởng chỉ con người mới lận đận trong chuyện cày ruộng hay sao, đất đai cũng lận đận chẳng kém con người, bỗng dưng anh vua đó hô phải phá bờ, vừa lên ngôi vua là lệnh phải phá tất cả những cái bờ ruộng trên các đồng ruộng, làm như thế thì cũng có thể gọi là mênh mông hóa ruộng đồng, em về vá áo cho anh, người con trai nói với người con gái anh đang yêu, đám cưới xong, đôi vợ chồng trẻ ra đồng ruộng, cái cách cày ruộng mới quá, sức mạnh của tình yêu cũng chẳng thể giúp gì cho bọn họ, hết thảy những người cày ruộng là đều ngơ ngác trước thứ đồng ruộng chẳng còn bờ cõi, bỗng dưng anh vua khác lên ngôi vua, vừa lên ngôi vua là lệnh phải đắp lại bờ, đất đai ê ẩm trong cuộc biển dâu, 

 

nhưng đó là chuyện xưa, tôi hỏi thằng bạn nối khố của tôi là nó có hiểu được cái cách cày ruộng người của cấp trên giảng giải hay không, thằng bạn nối khố của tôi ngẫm nghĩ, rồi lắc đầu, vẻ dứt khoát,

 

tao chịu, vì đấy chỉ là những khái niệm, mọi người cùng làm chủ trên một khoảnh ruộng chỉ là khái niệm, nhưng cày ruộng là cày trên đất đai cụ thể, là cày trên mảnh đất của mình, chứ ai lại đi cày trên khái niệm,

 

 

[Ba Mươi]

rồi tôi lại mơ thấy tôi đi tìm miền đất tuổi thơ của mình, miền đất ở phía bên kia dãy núi tôi yêu, nhà ngươi đâu phải là một con ngựa sau khi trải qua một đoạn đường thì đòi uống nước mật, tôi đùa nói với người đàn em  cùng đi với tôi, thì cũng là anh em trong làng thôi, sau khi trải qua một ngày đường, băng qua những làng xóm và những cánh đồng bỏ hoang, người đàn em của tôi cứ lăn ra đất tựa một con ngựa không còn chịu đựng nổi đường dài, làng tôi con người yếu đuối, con trâu con bò yếu đuối, bờ tre làng yếu đuối, tôi ngày đêm cảm thấy tâm can không yên, con người là cần phải trải qua  nhiều năm tháng mới hiểu thấu cuộc sống của mình, nhưng người làng tôi thì  thật vất vả khó khăn trong việc sống cùng năm tháng, những người già thì cứ quằn người xuống, có kẻ quằn xuống gần tận đất, làm như thể để tỏ ra hiểu thấu nghĩa lý rằng con người lớn lên với đất và bây giờ khi đã già thì phải trở về với đất, những bờ tre quằn xuống trong mưa bão cũng làm tôi cảm thấy bất an như khi nhìn thấy những người già trong làng quằn xuống, con người quằn xuống hết mức chịu đựng thì phải về với đất, nhưng bờ tre quằn xuống là phải đỡ lên, bỡi bờ tre là thứ vật thể sinh ra của cải như ruộng đồng làng, bờ tre cũng làm ra cơm áo như ruộng đồng làng,  không thể cứ như thế mãi, tôi muốn làm một cái gì đấy cho bớt đi sự yếu đuối, bớt đi nỗi đau khổ, cho làng tôi, người đàn em của tôi cứ lăn ra đất, thở, phải làm một cái gì đấy, tôi thầm nói với  mình, và vực anh ta đứng lên, chúng tôi phải qua phía bên kia dãy núi phía nam làng, miền đất từ thuở nhỏ tôi đã dành cho nó sự trú ngụ của các vị thần, từ thuở nhỏ tôi đã tưởng tượng ra các vị thần minh bạch và cao thượng, bọn họ từ đó bay đi khắp nơi ban phát cho con người áo và bánh, tôi vực người đàn em của tôi đứng lên, nhưng anh ta không còn bước nổi, nên tôi đành phải cõng anh ta, chúng tôi phải đến được miền đất đó mới tìm được một thứ gì đó cho làng tôi, thứ gì thì tôi chưa hình dung nổi, nhưng nhất định là chúng tôi phải đến được nơi đó, rồi cũng giống như con ngựa không còn chịu đựng nổi đường dài, khi đến nơi, tôi cũng lăn ra đất, chúng tôi thiếp đi, và khi tỉnh dậy thì thấy mình đang ở giữa một xứ sở hoang tàn, lặng ngắt những con đường xuyên qua những làng mạc không một bóng người, hay bọn  ta đã lạc vào nơi ở của những người chết, người đàn em của tôi nói, tôi bảo cứ đợi xem sao, lát sau thì có mấy người rất sang trọng đi xe tứ mã ngang qua chỗ chúng tôi, có ai mua núi rừng không, rõ ràng là chúng tôi nghe thấy tiếng rao từ trong xe tứ mã phát ra, có ai mua biển cả không, lần này thì nghe rao bán thêm biển cả, là lũ cướp rừng cướp biển hay là lũ điên khùng thì bọn ta cũng chết, người đàn em của tôi lúc bấy giờ có vẻ hoảng lắm, chúng tôi bắt đầu chạy, nhưng những làng xóm thì như vừa bị ai phá nát, nhà cửa bị hất tung, xác người xác trâu bò gà heo nằm ngổn ngang trên đường, chúng tôi vượt qua không biết bao nhiêu cảnh hoang tàn, rồi lại thấy có  nhiều người rất sang trọng đi trên những chiếc xe tứ mã sang trọng vượt qua chúng tôi, có ai mua tiếng cười trẻ thơ không, rõ ràng là chúng tôi  nghe thấy tiếng rao bán trẻ thơ từ trong những xe tứ mã phát ra, bọn ta bỏ mạng ở đây mất, người đàn em của tôi nói, có vẻ như không còn chạy nổi, cố lên đi,  tôi giục, và chúng tôi cứ tiếp tục chạy cho đến lúc lũ người ấy tống chúng tôi vào ngục, lũ các người cứ yên tâm ở đó cho đến khi gặp được tổ tiên các người, bọn họ nói, có vẻ như muốn ăn tươi nuốt sống chúng tôi, đây là xứ sở đang trong thời mạt vong hay là đang rơi vào tay một bọn chiếm đất nào đó, ở trong ngục tôi nói với người đàn em của mình, rồi chúng sẽ giết  hai đứa mình mất, người đàn em của tôi  như chẳng còn tin có ngày trở về, có chết cũng chết cho xứ sở của chúng ta,  tôi an ủi anh ta, và nghĩ ngợi không ngớt về mảnh đất tự buổi ấu thơ tôi đã mơ ước được đặt chân đến đó, có phải những nhận thức của tuổi thơ đã làm cho đất đai trở nên thiêng liêng, hay đất đai chỉ thiêng liêng đối với những ai còn giữ được sự trong trắng của tuổi thơ, rồi người đàn em của tôi đã chết ở trong ngục vì quá lo sợ, cuối cùng bọn họ thấy tôi chẳng có gì nguy hiểm nên đã để cho tôi trở về làng, hết ngày này sang ngày khác tôi cứ lang thang trong làng như  kẻ mất trí, tôi luôn nghĩ là mình có trách nhiệm trong cái chết của người đàn em của tôi, chết vì bạo lực, và luôn nghĩ về mảnh đất từng lung lạc tuổi thơ tôi và cho đến lúc ấy tôi vẫn cứ còn mơ hồ trong nhận thức, thấy tôi có vẻ khác thường, người trong làng theo gạn hỏi, nhưng tôi đâu dám nói thật là  mình đã nằm mơ, bỡi tôi cũng không dám chắc là mình đã nhớ hết những gì xảy ra trong mơ, nhưng cứ đêm đến, vừa chợp mắt là tôi lại nghe thấy tiếng rao ai mua núi rừng không, ai mua tiếng cười của trẻ thơ không,

 

 

[Ba Mươi Mốt]

nàng lại viết cho tôi,  hoa tử đinh hương của  Thomas Stern Eliot vẫn mọc trong đất chết, và triết học về con người của Walt Whitman vẫn cứ quyến rủ con người…Ai đến đó? khao khát, sai lầm, bí mật, trần trụi/ Làm thế nào từ miếng thịt tôi ăn lại thành sức mạnh của tôi/ Dù thế nào đi nữa thì người đàn ông là gì nhỉ? Tôi là gì? Anh là gì?/  và… Tôi cười vào những gì bạn gọi là cái chết/Và tôi hiểu sự vô hạn của thời gian [Who goes there? hankering, gross, mysitical, nude/ How is it I extract strength from the beef I eat?/ What is a man anyhow? What I am? What are you?/…I laugh at what you call dissolution/ And I kkow the amplitude of time-Song of Myself, section 20]  em đi dọc theo xứ sớ ấy thấy người ta bắt đầu thiết lập những phương án chống lại thế hệ rô bốt: đặt lại vấn đề hạnh phúc [hạnh phúc là gì, và con người có thể không có hạnh phúc được không…] và, thiết kế lại mô hình cho những nơi chốn người đàn ông và người đàn bà làm công việc duy trì loài giống con người theo hệ thống huyết thống homosapienes, nói tóm, phải gấp rút sinh đẻ thật nhanh, thật nhiều, trước khi lũ rô bôt thay cho con người làm công việc truyền sinh, ngài thị trưởng thành phố em đang lưu trú sáng nào cũng lên ti vi với chương trình mười lăm phút, gòm những hình ảnh mang tính chất cảnh báo, những đứa trẻ dị  dạng gần như ma quỉ ra đời sau cuộc giao hợp mang tính chất toán học của những cặp đôi rô bốt, còn khủng hơn, một thằng cha hay con mẹ rô bôt gì đó, các nhà thiết kế rô bôt gọi là chị chàng, tức lưỡng tính, tức có cả bộ phận sinh dục của người đàn ông và người đàn bà, sau cái chép miệng cười liền cho ra đời một chàng trai trẻ vừa bước khỏi lòng mẹ đã biết hát nhạc rap, sau những hình ảnh có tính chất cảnh báo ấy là bài diễn văn của ngài thị trưởng, bây giờ chúng ta còn kịp để đối phó với mặt trái của khoa học đương đại, đấy là chủ đề của bài diễn thuyết, và em, quá khổ sở để mường tượng làm sao con người đương đại lại có thể chống lại khoa học đương đại trong khi nghe nói ngài thị trưởng đang bị đái đường trầm trọng đang được các bác sỉ giỏi nhất thành phố điều trị với phương pháp hiện đại nhất, thì em cũng chỉ nghe nói, ở đây, thứ tin tức đang bùng nổ là về ngài thị trưởng, người có những quan điểm xã hội hơi độc đáo, em đi dọc theo con đường phố có nhiều cửa hàng bán giường nằm, chăn, gối, thấy khách mua đông nườm nượp, ở một đường phố khác, đi ở ngoài đường nghe ở trong nhà có rất nhiều những tiếng khoan, cưa, đục…hỏi mới biết những nhà ấy đang sửa lại phòng the cho những cặp vợ chồng trẻ mới cưới, vâng, em cứ có cảm tưởng như người ta đang chạy nước rút trước khi con người nhường thế giới này lại cho đám rô bôt,  quả tình những thành tựu của văn minh đương đại đã làm cho mặt đất náo nhiệt hẳn lên, cũng thật cảm động làm sao, các nhà khoa học đương đại không cần tuyên bố này nọ, như thượng đế đã chết, kiểu tuyên bố ồn ào của Friedrich Wilhelm Nietzsche  hồi thế kỷ 19, mà chỉ âm thầm làm cho thượng đế thấy đã đến lúc con người chẳng còn cần gì ở ngài nữa, thấy khoa học sang trọng thế các nhà làm chính trị cũng bắt quàng làm họ, thời của chính trường mà anh, có vẻ cũng đầy cảm hứng sáng tạo nơi đầu óc của các vị nguyên thủ quốc gia, nơi đầu óc của những những nhà kiến trúc cơ chế xã hội và đầu óc của những nhà họach định trật tự thế giới, có vẻ như những đại tự sự đang tiềm ẩn hay đang được ra đời nơi những hiệp hội, những liên minh quốc tế, chẳng phải những ký kết ở những tổ chức ấy là những đại tự sự của thời đại hôm nay sao, có quá nhiều những ký kết, và những nguyên thủ quốc gia đi họp thượng đỉnh để ký kết như đi chợ, em cứ có cảm tưởng ở những nơi hội họp ấy phần giả dối thì nhiều hơn thực lòng, nếu không phải thế thì cái gì giải thích cho việc hòa bình thế giới vẫn tiếp tục bị đe dọa [mỗi chuyện vũ khí hạt nhân mà tốn không biết bao nhiêu giấy bút và nước bọt, bỡi những nước lớn thì có quyền dùng nó, còn nước nhỏ thì không, hay bỡi các nhà cai trị vẫn là những chiến binh ghiền đánh nhau] và giải thích cho việc các cuộc  chiến tranh cục bộ vẫn đang giết chết hàng ngàn hàng vạn con người lương thiện, hay loài người vẫn là nơi thể nghiệm những trò chơi chính trường của các nhà làm chính trị, ở xứ sở em đang cư trú người ta đang dở khóc dở cười bỡi đang ập lên xứ sở này thứ trò chơi chính trường ma quỉ của người lớn có lẫn sự ngớ ngẩn của trẻ con, em nằm mơ thấy cô nàng rô bốt vừa đi diễn thuyết một số nơi trên thế giới đến gõ cửa phòng trọ của em, xin chào bạn, nàng nói lơ lớ như buổi con người mới tìm thấy được giọng nói của mình, em vùng dậy, cảm thấy bực tức vì có người con gái lạ đột nhập chỗ ở của mình một cách bất lịch sự, bạn không nhìn thấy hay sao một buổi sáng mùa thu tuyệt vời hoa đang nở và lũ chim đang ca hát, nàng tiếp tục nói, buổi trưa hè nóng ba mươi bảy độ C, không chịu nổi với cái nóng bất thường ở một xứ lạnh như thế nên em thiếp đi, lại mơ thấy một thứ tín hiệu, thật khó nói anh à, tín hiệu về sự hạn chế của trí tuệ con người, hay tín hiệu về một tương lai thảm hại của con người, tương lai chúng ta lại thêm sự lừa dối của rô bốt anh à, 

 

 

[Ba Mươi Hai]

rồi tôi lại nghe có người đương là con người đường hoàng, có nghĩa cũng đủ chân tay mặt mày như mọi người, nhưng đầu óc bỗng chuyển sang những nghĩ ngợi khác thường, là  thứ tiếng nói của dân tộc tôi trong mấy nghìn năm qua kẻ ấy lại muốn chuyển sang cách nói sao cho gần với giọng của cầm thú, lại một kẻ muốn làm một cuộc “cách mạng” về giọng nói, làm sao mà sự ngu xuẩn lại có thể có đất đứng giữa thời đại được gọi là thời của trí  tuệ nhỉ, tôi không biết,

 

 

[Ba Mươi Ba] 

rồi cộng đồng người làng tôi lại xôn xao về chuyện toàn cầu hóa vốn là thứ văn hóa có vẻ phức tạp của thời đương đại, loài người là đang bước vào thời đại mà mặt đất, nơi con người đang trú ngụ, được coi như một thứ thế giới phẳng, toàn cầu hóa nó chưa phải là chuyện của làng tôi,  nhưng khi lọt vào tai những người cày ruộng ở làng tôi thì bỗng trở nên như một hiểm họa, bỡi những người cày ruộng ở đây cứ hiểu một cách mộc mạc rằng làng mà bị toàn cầu hóa thì đồng làng không còn là của họ nữa, nhà cửa của họ không còn là của họ nữa, chưa có ai đến  giải thích với họ toàn cầu hóa là sao thì họ đã mang nỗi sợ hãi trong lòng, bà lão cạnh nhà tôi có vẻ là kẻ lo lắng nhất làng, bà ấy  quí những gì thời tuổi trẻ vợ chồng bà đã làm ra, thì gia sản vợ chồng bà làm được cũng chỉ là  ngôi nhà mái tranh vách đất bao nhiêu lần người làng muốn giúp bà làm lại bà vẫn nhất quyết không chịu, với những thứ nồi niêu dao rựa…cũng có thể hiểu được khi không kiếm được đứa con nối dõi thì người ta quí những thứ ấy, ông lão chết chỉ  lại những thứ bình thường như thế nhưng lại trở nên thiêng liêng đối với bà, tôi sang nhà bà lão thì thấy bà đã ăn xong những chiếc rổ đan bằng nan tre đang xoay sang ăn những chiếc rổ bằng nhựa, tôi thấy lo lắng vô cùng, rổ bằng nan thì còn khả dĩ, đằng này, rổ bằng nhựa chế tạo từ công nghệ hiện đại, nếu răng cỏ bà lão còn đủ cũng chẳng thể ăn được, huống hồ bà đã không còn răng, cũng sắp tối rồi bà không lo cơm nước ngồi ăn chi những thứ rổ rá, tôi nói như để đánh thức bà lão vì bấy giờ cứ nghĩ là bà ấy đang lầm lẫn chi đó, bà lão ngưng việc ăn những chiếc rổ nhựa, ra hiệu tôi im, từ phía cuối làng đang vọng lại những tiếng hoan hô và đả đảo, hoan hô cái cày gỗ, và đảo lũ toàn cầu hóa, thì ra  chiều hôm ấy người làng tôi bắt đầu xuống đường để phản đối thứ tai họa ấy, một lũ vô tích sự, bà lão lầm bầm sau khi nghe thấy những tiếng hoan hô và đả đảo từ cuối làng vọng lại, mà cháu cũng nên về lo việc nhà của cháu đi thôi, bà lão nhìn tôi, nói, rồi tiếp tục ăn những chiếc rổ nhựa, lần này tôi hơi hoảng vì bà lão bỗng ngậm chiếc rổ, ngửa mặt lên trời, thở, chắc bà ấy chết mất, tôi nghĩ, nhưng loáng cái, không biết là mắt tôi có nhầm không, tôi chẳng còn thấy những chiếc rổ nhựa,  thì ra tôi đã hiểu ra, những người làng khác chống toàn cầu hóa bằng xuống đường phản đối, còn bà lão láng giềng của tôi thì bắt đầu ăn những gì bà tạo dựng được, nhưng khi bà bắt đầu ăn những chiếc dao xắt thịt bằng sắt thì tôi mới thực sự lo sợ, bà ấy sẽ chết mất, tôi nghĩ, nhưng cuối cùng thì chẳng hề chi, chẳng nhìn thấy giọt máu nào chảy ra ở miệng bà lão sau khi bà ấy nuốt hết mấy con dao bằng sắt, nhưng khi thấy bà lão nằm dài xuống trước bếp nấu, bắt đầu gặm những ông táo kê bằng đá núi thì tôi phải lên tiếng can ngăn, bếp là để nấu ăn bà không nên hủy nó đi, tôi nói, bà lão ngưng gặm những hòn đá núi, giận dữ nhìn tôi, cháu đâu biết nó là của ông nhà tôi hồi còn sống đã mang tự trên núi về, thì ra, đây là thứ tài sản còn quí giá hơn những dao xắc  và rổ, hình như là máu đã bắt đầu ứa ra từ môi miệng bà lão, tôi sợ, nhưng chẳng dám can ngăn, cũng chẳng còn đủ can đảm để tiếp tục đứng nhìn thứ sự việc chẳng bao giờ tôi nghĩ có thể xảy ra trên đời, tôi về nhà thắp đèn, nằm nghĩ mãi về cách chống nỗi lo sợ toàn cầu hóa của bà lão, nỗi lo sợ vô cớ đã ập xuống xóm làng tôi, những người làng xuống đường chắc đã về cả, chẳng còn nghe thấy tiếng hoan hô đả đảo, vào khoảng quá nửa đêm gió bắt đầu thổi mạnh, đang tháng sáu chẳng lẽ lại có mưa, nhưng rồi mưa thật, giống sấm gió giật đầy trời, vừa hừng đông, tôi hé cửa dòm thử, thì thấy  ngôi nhà tranh của bà lão đã biến mất, tôi vội vã chạy sang, bà lão đã chết tự hồi nào, đang  nằm chèo queo trên nền nhà trống trơn, và miệng còn ngậm mỗi bàn tay của mình, thì ra gió mạnh trong đêm đã làm bay mất căn nhà tranh của bà lão, nhưng khi thấy có mấy cộng tranh còn dính nơi mép bà lão tôi hoang mang vô cùng, chẳng  lẽ sau khi ăn hết những dụng cụ trong nhà, bà lão thấy chưa yên tâm với cái gọi là toàn cầu hóa, đã quyết định ăn luôn ngôi nhà  của mình và ăn luôn mình, chỉ mới giả dụ thế tôi đã thấy vô cùng rối rắm trong suy nghĩ,

 

 

[Ba Mươi Bốn]

rồi  câu chuyện internet, câu chuyện của văn minh đương đại lại xâm nhập vào cuộc sống của người làng tôi, như thứ dịch bệnh đang lan tràn, đi tới đâu cũng nghe người làng nói đến “mạng”, trên mạng người ta nói chính phủ sắp phát hành tờ giấy bạc mới, trên mạng người ta nói bọn lính I S đi tới đâu đốt nhà giết người tới đó, vân vân, người nào cũng bắt đầu với kiểu “trên mạng người ta nói”, như trong một số pho sách đạo Phật bắt đầu với kiểu “ta nghe như vầy” [“như thị ngã văn”] bỡi đó là thứ ngôn ngữ mô tả lại một sự việc nào đó được nghe từ sự mô tả lại của một người nào đó, nguồn tin tức có thể là từ những chiếc điện thoại thông minh của đám học trò con nhà khá giả trong làng, hoặc từ những chuyện  mạng internet được nói trên truyền hình, người xem điện thoại thông minh hoặc xem truyền hình đi nói lại với người khác những gì mình nghe thấy, tất nhiên là  chỉ trích dẫn những gì thấy  mới lạ và thích thú, những thứ dễ nhớ, cái nội dung “trên mạng người ta nói” là một thứ tin tức truyền miệng, có thể đã đi quá xa, hoặc không còn giống với chuyện gốc chút nào, nhưng ở cái ngôi làng buồn bã dưới chân dãy núi tôi yêu con người đang nghe thấy và trao đổi với nhau những điều như đã quá nằm lòng, đã tự quá lâu, bỗng có những thứ mới toanh ập tới, việc đón nhận nó như một cách phá vỡ nỗi buồn cố cựu, hay đúng hơn là đón nhận một sự mầu nhiệm trong niềm vui kính ngưỡng, mà thật, mạng internet đối với  những người cày ruộng ở làng tôi không mấy khác với thần thánh, bỡi họ chỉ nghe nói và phát âm được mấy từ ấy: mạng, hay mạng internet, và  không hề biết nó là gì, cho nên, khi nói ra được câu: trên mạng người ta nói thế này thế nọ như là niềm khoái cảm được thâm nhập vào cõi u minh, chuyện nền văn minh số hóa đã đến với những người áo vải làng tôi khiến tôi cứ nghĩ đến một thứ dự án [tôi cũng chẳng biết gọi thế nào ngoài từ dự án] để mô tả  sức xâm nhập của văn minh đương đại vào đời sống  những người cày ruộng trong làng có một khoảng cách quá lớn đối với nền văn minh ấy [theo tôi  cũng đến vài thế kỷ] thằng bạn nối khố của tôi bắt chước nhà triết học nhà văn nhà phê bình văn học người Đức Walter Benjamin với Dự Án Mái Vòm [Passagen Werk/Arcades Project/Thương Xá] bảo tôi  hãy gọi đó là Dự Án Về Sự Bùng Vỡ [Outbreak  Project] tôi thấy cũng hay, bỡi sự xâm nhập của văn minh số vào làng tôi giống như một cuộc bùng vỡ của tin tức, một sáng mùa xuân, vào buổi chợ phiên của làng,  tôi ra ngồi đầu ngõ, lúa vụ đông xuân  trên cánh đồng trước ngõ nhà tôi đang thì con gái, nghe mùi thơm của lúa tôi thấy yêu mảnh đất quê mình ghê gớm, có mấy người làng đi chợ phiên bán rau cải khi ngang qua chổ tôi vẫy tay chào, tôi chưa kịp chào lại  bọn họ thì nghe tiếng thét của chị Bốn Chẽn từ đằng xa, thì ra chị réo gọi mấy người đi bán rau cải hãy  đợi chị, khi chị ấy gánh gánh cá luộc đi tới chỗ tôi, thấy gương mặt chị tươi như hoa, tôi hỏi chị đi giã tự lúc nào, mới giờ này đã về tới làng, vấn đề không phải về sớm hay muộn mà cái chính là chị của chú đã nghe được trên mạng người ta nói quá nhiều thứ, chị ấy nói, nhưng nhiều thứ  là những thứ gì, mấy người bán rau cải hỏi, chị Bốn Chẽn bắt đầu nói, một là mấy thằng cha giả làm nhà kinh doanh sản xuất về làng quê lừa dân làm ruộng  đầu tư  góp vốn vào công ty này công ty nọ, rồi thừa cơ ôm tiền trốn đi, hai là, bán hàng đa cấp, có phải đa cấp không nhỉ, vấn đề không phải là bán hàng đa cấp, không phải là bán hàng thiệt, mà chủ yếu là chúng muốn cướp tiền của chúng ta, hãy góp vốn vào công ty bán hàng đa cấp, càng nhiều càng tốt, bỡi sau khi góp vốn thì mấy bà cứ ngồi im đó mà nhận tiền lãi, nhưng chuyện đó cứ gác lại sau, bây giờ, các bà phải coi chừng lũ I S, chúng sắp tấn công vào làng ta rồi đó, mấy đứa lừa đảo chỉ làm cho bọn ta mất tiền, nhưng đụng vô thằng I S thì chúng ta mất mạng, mấy người bán rau cải vội vả đứng lên, toan gánh rau cải quay về, tôi phải vội vã giảng giải, lũ I S ở tận bên Tây Á, tức là cách làng ta đến mấy giờ bay, chỉ là chị Bốn Chẽn đã nghe lầm đấy thôi, tôi lại cười tôi, bỡi các bà ấy có biết Tây Á là gì, và  có bao giờ được đi máy may đâu mà bảo Tây Á cách làng tôi đến mấy giờ bay, buổi sáng mùa xuân có vẻ yên tĩnh, lúa đông xuân  coi như chỉ còn chờ  gặt, đồng làng vắng bóng  người làm, người đi chợ làng có kẻ đã quay về, con đường làng ngang ngõ nhà tôi có vẻ vui hẳn lên, dường người làng, ngoài việc ruộng đồng, đã nghĩ ra nhiều  thứ để chạy chợ, gói rổ bánh ú, hoặc nấu nồi bánh ít,  mang ra chợ phiên bán,  rồi anh Bốn Chẽn đã  thả cái trạnh cày xuống đường, sà vào chỗ tôi, người  đã khiến tôi âm thầm mang bản thảo văn chương  của mình đi đốt, coi như hết đường binh rồi chú, anh ấy nói, anh cứ tính thử coi, hầu như trên cánh đồng làng nào người ta cũng cày máy, cái trạnh cày của anh lâu lâu may lắm thì mới lên đường tới một làng dân tộc ít người nào đó người ta còn dùng cày bò để cày đất rẫy, tôi nói, anh Bốn Chẽn cười hề hề, thì cũng than với chú một chút vậy thôi, mà thôi hãy dẹp cái trạnh cày qua một bên, bây giờ tôi hỏi chú, trên mạng người ta nói thế có chết dân chúng  mình không, cái con mẹ  đó tới làng đó, tới để rủ người làng đó đi tu với con mẹ đó,  tu đủ ba năm bốn tháng mười ngày thì sẽ chẳng còn bệnh tật gì nữa, tu thêm ba năm bốn tháng mười ngày nữa thì có thể sẽ không còn chết, chú nghĩ đời có mộng mị không, làm người mà không chết,  chuyện đó còn tha được, trên mạng người ta nói, cái gì chú nhỉ, à, xâm hại tình dục trẻ em, thì cứ nói mẹ nó ra là hiếp dâm trẻ em, một lão già chín mươi đi hiếp dâm đứa bé lên mười, cái vận nước nó khiến vậy, phải không, cứ xếp  hạng người đó vào loài súc vật đi,  và theo chú, thì bỏ tù, chém, hay cho voi chà, cái bọn buôn người ấy, trên mạng người ta nói bọn chúng lừa con gái và phụ nữ nước mình đem sang bán cho bọn Trung Quốc, anh Bốn Chẽn bỗng đứng lên, xách cái trạnh cày lên, cắm đầu cắm cổ chạy trở lại hướng chợ phiên, làm như thể ở đó đang xảy điều gì nghiêm trọng, tôi cảm thấy hơi buồn, và trong đầu tôi thoảng qua câu hỏi như một thứ bi kịch của thời đại, chẳng lẽ anh Bốn Chẽn lại sợ bọn buôn người đến phiên chợ làng bắt cóc chị Bốn Chẽn, mặt trời đã lên cao, đã có nhiều người đi chợ về,  khi ngang qua chỗ tôi, người nào cũng vẫy tay chào tôi, và tôi đã vui vẻ chào họ, ở trong làng người người làng nào cũng thích trò  chuyện với tôi, vì tôi rất thích trò chuyện với bọn họ, rồi thím Chín  Quờn đi chợ về, vừa thấy tôi là thím ấy sà vào chỗ tôi, khóc, tôi cứ thấy bất an trong lòng, vì ở trong làng nhà chú thím ấy đã xảy ra bao điều bất hạnh, mất tiền hay sao thím Chín, tôi hỏi, nhưng cứ nghĩ không phải thím ấy khóc vì mất tiền, đang có bắt cóc đàn  bà con gái, ở trên mạng người ta nói thế, chú à, thím Chín Quờn lau nước mắt, con Út nhà tôi thì đang đi hái cà phê mướn trên tây nguyên chú à,  rồi cũng như anh Bốn Chẽn, thím Chín Quờn cũng đứng lên, chẳng kịp chào tôi, cắm đầu cắm cổ chạy trở lại hướng chợ phiên của làng,  ở trong làng, đã bắt đầu nghe thấy tiếng heo kêu, tiếng lũ  nhỏ khóc vì khát sữa, đã nghe thấy tiếng những người già mắng mỏ lũ trẻ, tôi cảm thấy buồn, rất buồn, hóa ra  những tin tức  trên mạng người làng tôi nghe được chẳng mang lại thứ tư tưởng xã hội mới mẻ nào cho mảnh đất dưới  chân dãy núi tôi yêu, dẹp chuyện dự án thôi, tôi quyết định,  và quay trở vô nhà  với thứ tâm trạng như kẻ vừa thoát chết,

 

 

[Ba Mươi Lăm]

và rồi nàng cũng đã trở lại với tôi, chúng tôi lại gặp lại nơi núi rừng chúng tôi đã chia tay nhau ngày ấy, lần gặp nhau này chúng tôi hứng thú bàn về chuyện văn chương, tôi hỏi nàng thơ là gì, nàng nói thơ là cuộc trò chuyện giữa ban ngày, tôi nói thơ chỉ là con bướm nhỏ, rất nhỏ, của tâm hồn, vào những lúc cảm thấy thèm mật ngọt thì bay đậu lên những bông hoa, nàng nói thơ không phải con bướm mà là con chim, một con chim biết hót, tôi nói không phải con chim biết hót mà con chim biết bay lượn nơi bầu trời cao rộng, cứ thế, chúng tôi lại tranh luận nhau, và nàng có vẻ như đuối sức trong việc tôi bác bỏ những ý kiến của nàng, rồi tôi hỏi nàng có đau không, và nàng nói em không đau, cuộc va chạm có vẻ khốc liệt như thế là đã diễn ra khi chúng tôi gặp lại nhau, và nàng thì cố dấu những nỗi đau, nỗi đau  không được tôi chia xẻ những suy gẫm về thế giới của nàng, cho đến một hôm tôi phát hiện được nàng là ai, tôi biết nàng là ai, và chỉ cười thầm trong bụng, em không thoát được tôi đâu, tôi nói, thoát được cái gì em không hiểu, nàng nói, quả tình là nàng không biết là tôi đã biết nàng là ai,

gõ vào hư không để tìm lại chút âm vang thuở nguyên sơ
thoắt một bóng hình lộng lẫy
giữa trùng vây huyễn diệu ngọn gió thơm mùi lửa cất lên
khúc hát của những hơi thở
của đất của nước…
 

 

tôi đọc, nàng có vẻ như cứ ngớ ra, có vẻ như đã nhớ ra… thơ của những tác giả Truyền Kỳ Mạn Lục, Lĩnh Nam Chích Quái và Việt Điện U Linh, nàng nói, phải, là thơ viết chung của các tác giả Việt Điện U linh, Lĩnh Nam Chích Quái và Truyền Kỳ Mạn Lục ngày ấy, tôi lập lại lời nàng, và đọc,

 

em như con ong
nghe trộm
ai đang vỗ nhịp trên rừng… 

 

trời đất ơi, làm sao mà anh biết được, nàng có vẻ rất đỗi ngạc nhiên, đã kêu lên, thật to, khi bỗng dưng nghe tôi vanh vách đọc thơ của nàng, làm sao cái cô bé mài mực ở gác Kim Hoa(*) ngày ấy nhớ được tôi cũng là khách văn trong vô số khách văn lui tới chốn ấy, tôi nói, khi bỗng nhiên tôi thấy cả tôi lẫn nàng đều là những kẻ lui tới  gác Kim Hoa  ngày ấy, nàng cứ lặng đi, có vẻ xúc động lắm, như là vừa mới nhìn thấy lại một cái gì đấy đã mất từ lâu, vâng, tôi là khách văn, còn nàng là cô bé mài mực và biết làm thơ, những thế kỷ tro than đã làm cho chúng tôi gần như quên hết  chuyện cũ, không, bỗng nhiên tôi cứ thấy như tôi và nàng đã trò chuyện nhau trong Cuộc nói chuyện thơ ở trong sáchTruyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ hồi thế kỷ thứ mười sáu, sau bữa nàng biết được tôi đã biết nàng là ai, thì nàng nói lời từ biệt tôi để trở về chốn cũ, đã chấm dứt những cuộc tranh luận về văn chương anh ạ, nàng nói, tôi biết là tôi lại phải xa nàng lần nữa, em đi, chẳng biết bao giờ mới trở lại đây, nàng nói, như sắp khóc, tôi như cũng sắp khóc, và cứ thấy như những vần thơ tài hoa của nàng rơi lả tả trong ký ức mình, núi rừng im ắng lắm như thể đang cố giấu kín cuộc sống lãng tử của tôi và nàng,

 

[*] Đặt theo “Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa” trong
Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ

 

 

[Ba Mươi Sáu]                                                                

rồi tôi lại mơ thấy mình đi gặp người xưa cũ, cụ Tiên Điền Nguyễn Du, và tôi cứ tưởng là không gặp được ông cụ, nhưng mấy em hoa hậu thế giới  vừa bước ra khỏi cửa là tôi ùa vào phòng ngay, người vừa tiễn khách và đưa tôi đến chỗ ông cụ  là một ông già có vết sẹo khá lớn chạy vòng quanh cổ, có lẽ đây là vị khách cuối cùng của huynh trong ngày hôm nay, ông già tuổi cũng xấp xỉ cụ Nguyễn Du, nhưng giọng nói nghe như của một chàng trai trẻ, chờ có lâu không, câu hỏi đầu tiên của chủ nhân khiến tôi lập tức cảm thấy thỏai mái, quả là gần suốt buổi chiều, sự chờ đợi tựa thứ hình phạt lại rơi trúng vào tôi, cả buổi chiều đệ cũng sắp bung cả gân cốt, huống hồ là huynh, ông già có vết sẹo ở cổ nói, cuộc tiếp khách vừa rồi như còn để lại  âm vang quá lớn trong căn phòng la liệt những sách vở tôi nhìn thấy rất lạ mắt, bọn họ là tài sắc trong thiên hạ, sợ mệnh yểu cũng phải, ông cụ nói xong lời này thì nhìn tôi như để dò xét, trong lúc tôi đang có ý nghĩ rằng cái thuyết tài mệnh ghét nhau của ông cụ như chỉ còn lung lạc mỗi đám người đẹp thế giới, rằng  đám đàn bà con gái năm châu bốn biển có kéo đến nhà quần ông  như thế là để cho đáng đời  các vị triết gia thích đưa ra thuyết này thuyết nọ, là chả có em nào đẹp bằng Vân bằng Kiều của huynh mà cũng bày lo lắng cho kiếp số hồng nhan, ông già có vết sẹo ở cổ đột ngột có ý kiến về nhan sắc đám hoa hậu thế giới, sợ ông cụ lại đổi ý, thôi tiếp khách, tôi vội vã vào chuyện, rằng, sở dĩ tôi lặn lội đến đây là để được tác giả truyện Kiều giảng  cho nghe những nghĩa lý cao sâu của tác phẩm, rằng gần hai trăm năm qua, có đến hằng trăm hằng nghìn bình phẩm về câu chuyện người con gái tài hoa, tôi ngẫm nghĩ mãi mà nghĩ chẳng ra, là làm sao người đời lại nghĩ ra được những lời khen chê nhiều đến gấp mười gấp trăm lần tác phẩm, nhà ngươi là thuộc trường phái văn chương quậy phá phải không, ông già có vết sẹo ở cổ đột nhiên hỏi tôi một câu có tính cách triều đình, tôi nói mình chỉ là kẻ hậu thế ngưỡng mộ các bậc tiền bối, còn trường phái văn chương quậy phá thì quả tình lần đầu nghe nói đến, lần đầu ta gặp nhà ngươi, cũng là lần đầu ta có cảm tưởng một kẻ sinh sau ta lại thuộc cùng trường phái với ta, ông già có vết sẹo ở cỗ đang nói bỗng ngừng lại, nhìn sang cụ Nguyễn Du, hỏi, có phải huynh cũng đang có cảm tưởng như đệ, kẻ ấy là ai, cái con người có vẻ thân thiết với tác giả truyện Kiều như đang làm dấy lên trong tâm can  tôi niềm hân hoan khó tả, thưa tiền bối, kẻ hậu sinh thật lòng chưa hiểu trường phái quậy phá là gì, song, được cùng chung chiến tuyến với tiền bối thì quả không có niềm vui nào sánh bằng, tôi lập tức xếp ông ấy vào hàng tiền bối, và có cảm thấy giật mình, xếp thế có nghĩa là mặc nhiên coi ông ấy là ngang tầm  với cụ Nguyễn Du trong khi tôi chửa biết chút gì về ông ấy, khả ái khả ái,  ông cụ khẽ kêu, đối với vị  khách cố ý đến là tôi thì cách bày tỏ sự đồng tình của chủ nhân quả là khích lệ lớn lao, thưa, những bình phẩm của thiên hạ về Kiều  thì  nhiều, nhưng trong đó có một lời bình cứ làm  kẻ hậu sinh này ấm ức, là bình như thế nào, không phải ông cụ mà là ông già có vết sẹo ở cổ hỏi, tôi bắt đầu diễn lại cái ý chính của lời  bình Kiều tôi đã đọc ở đâu đó chẳng còn nhớ rõ, là mọi thứ xảy ra trong truyện Kiều, người bình Kiều xin cúi đầu bái phục, chỉ trừ một điều, là tại sao nàng Kiều không đẻ con, ta biết là đầu óc đám hậu sinh lũ ngươi lúc nào cũng nghĩ đến chuyện đẻ, đã hơn sáu tỉ người trên mặt đất, nhưng lúc nào con người cũng nghĩ đến đẻ, ông già có vết sẹo ở cổ chợt đưa ra nhận xét có tính cách áp đặt,  tôi bảo không phải lúc nào cũng nghĩ đến đẻ, nhưng sau mười lăm năm ăn nằm với bao nhiêu đàn ông, Kiều vẫn không đẻ, là nghĩa làm sao, loài người là do tiến hóa chứ không phải do đẻ mà có, nói đẻ là tồn tại thì được, nhưng không phải tồn tại là đẻ, quả tình là tôi có bất ngờ khi ông già có vết sẹo ở cổ tỏ ra am tường khoa học hiện đại như thế, bấy giờ là tôi có ý nghĩ ông ấy còn tài hoa hơn cả ông cụ, nhưng liền sau đó tôi hiểu ra không phải, liền sau đó ông quay sang ông cụ, mai là huynh có cuộc hẹn với mấy tay khảo cổ chết hồi cuối thế kỷ hai mươi, tác giả truyện Kiều chỉ khẽ gật đầu, và tiếp tục trầm ngâm bên chén trà đặt trên chiếc bàn năm chân lúc mới bước vào phòng tôi đã có cái cảm tưởng khác thường là tất cả những thứ ấy là chỉ dành riêng cho một nhà nghiên cứu đang đeo đuổi một lãnh vực nghiên cứu khác thường nào đó, đã hết chưa, ông già có vết sẹo ở cổ chợt hỏi tôi, tôi vội vã  quay lại cuộc chất vấn, rằng, có bao nhiêu người thắc mắc là tại sao trong truyện Kiều lại có chuyện ông trời đi ganh ghét người đẹp, đầu óc của lũ ngươi quả là cũ kỹ, ông già có vết sẹo ở cổ nói xong lời ấy thì ngửa cổ cười vang, tôi cố ghìm sự bực tức để thưa rằng mình chưa hiểu lời ấy, lập tức ông bắt  đầu giảng cho tôi nghe, rằng, sau mười lăm năm luân lạc Kiều đã nói với người mình yêu về nghĩa lý của tồn tại, nói bằng thứ âm vang của tồn tại, tiếng đàn là âm vang của tồn tại, đục và trong, trầm và bỗng, trời và vẻ đẹp của muôn sinh, hỗn độn và hài hòa, “mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”, tồn tại là một cuộc tương tác vĩ đại giữa hỗn độn và hài hòa, nói ghét nhau cũng như nói tương tác, là vẻ non xa với  tấm trăng gần trước lầu ngưng bích, mà người đời sau lại đem tất cả những cao sang ấy đặt vào chốn tầm thường, tôi thử sờ lên trán  mình thì thấy có  mồ hôi đang rỉ ra, không phải sợ hãi, mà là một thứ cảm thức kỳ dị đang xâm chiếm toàn bộ đầu óc tôi, dường như đêm đã đến, ở trong phòng lúc bấy giờ tôi nhìn thấy thứ ánh sáng mịn và đục tựa được chiếu đến từ một thứ vật sáng được bọc bằng vải lụa, có mùi phân bò ở đâu đó hắt vào phòng, và ngoài đường phố có nhiều tiếng cười nói mới thoáng nghe tôi đã có cảm tưởng rằng những con người ấy là đến từ những hành tinh xa lạ, tối nay đi ăn phở cổ đại hay ăn cơm tự dưỡng, ông cụ chợt quay sang ông già có vết sẹo ở cổ hỏi, không còn kiềm chế được sự tò mò, tôi dừng cuộc chất vấn về truyện Kiều để hỏi thử ông cụ đã chuyển đến cái thành phố có hơi hướng thời hậu tương lai ấy từ bao giờ, sau khi chết gần bốn mươi năm thì đại huynh ta chuyển đến đây, còn ta thì cũng vừa lành lặn thân thể, ông già có vết sẹo ở cổ nói, tôi lập tức lướt mắt sang những cuốn sách lạ trên giá sách thử có tìm ra chút manh mối nào về mối quan hệ giữa hai con người có vẻ như đôi bạn tri kỷ, Thiên Thạch Chuyển Lưu, Đá Con Người Và Cuộc Tồn Sinh, rốt cuộc thì tên những cuốn sách chỉ làm tôi rối rắm thêm, rốt cuộc thì cái con người có vẻ am tường về ông cụ ấy là ai, như thế là tác giả truyện Kiều đã chuyển sang nghiên cứu về đá trời, thiên thạch, tôi liều mình hỏi, không phải nghiên cứu, mà là thể nhập, ngay tự khi chép truyện Kiều đại huynh ta đã làm cuộc thể nhập ấy, ông già có vết sẹo ở cổ bắt đầu nói về ông cụ mà tựa như cắt nghĩa lại thế giới, thuở ban đầu của tồn tại là đá, là vô tri, loài người với cái gien đá vô tri ấy đã ngang nhiên đứng lên giữa cuộc tồn sinh, với cái gien đá ấy con người đã làm ra cả sự yêu thương lẫn thù hận, cả cái cao cả lẫn thấp hèn, cả cái có lý và không có lý, thể nhập là cuộc trở về với nguồn gốc con người, trong cuộc thể nhập ấy, đại huynh ta đã nghe thấu được tiếng đoạn trường, nhưng đoạn trường nào là cũ, đoạn trường nào là mới, tôi xen vào hỏi, ông già có vết sẹo ở cổ nhìn sang ông cụ như để thỉnh ý, rồi bảo tôi rằng đấy chỉ là một cách tiếp cận thế giới, đoạn trường hay không đoạn trường chỉ là cảm thức của con người trong cuộc tồn sinh, “rằng hay thì thật là hay, nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào”, nhưng làm cách làm sao để từ chuyện chữ nghĩa văn chương chuyển sang chuyện nguồn gốc sự sống, tôi hỏi, ông già có vết sẹo ở cổ chợt nói mà như ngâm,

 

“có người hỏi ta rằng… thế thì làm sao mà lại có truyện Thúy Kiều, ta đáp lại rằng, từ lúc mờ mịt chưa có gì, đến lúc có thái cực, có lưỡng nghi… rồi tự nhiên biến hóa không ai dò được manh mối từ đâu,  trong khoảng ấy có rét, có nắng…  lúc đầy lên, lúc vơi xuống, không thể nào giữ mãi được mực thường, đã không giữ được mực thường, thì tất có cuộc biến,…cái biến ấy đã khác với cái thường, thì phàm ai gặp phải thời ấy, bước vào cái cảnh ấy, ngổn ngang…chồng chất những khối ở trong lòng, mới phải mượn đến bút mực để chép ra, … giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy mà căn duyên vẫn gỡ chưa rồi, khúc đàn bạc mệnh gảy xong, mà oán hận vẫn còn chưa hả, thì dẫu đời xa người khuất, không được mục kích tận nơi, nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút”,

 

tôi biết ông vừa trích đọc bài tựa truyện Kiều của cả Phong Tuyết chủ nhân và của cả Mộng Liên Đường chủ nhân… như thế thì gọi là thể nhập, khoa học là cuộc thể nhập vĩ đại nhất của loài người, ở đó mọi nỗi ưu tư của con người đã gặp nhau, nên mới có chuyện tác giả truyện Kiều cũng là tác giả sách nói về đá trời, ông già có vết sẹo ở cổ tiếp tục bình luận, mang giúp ta cái túi ấy, chú Cao, tác giả truyện Kiều chợt gọi, tôi cảm thấy bàng hoàng, là Cao Bá Quát người bị xử chém sau cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương ư, chẳng lẽ con người quyết xóa bỏ  triều đại họ Nguyễn ở Việt Nam hồi cuối thế kỷ mười chín lại là tri âm tri kỷ của con người cộng tác với triều đại ấy suốt hai mươi năm đầu thế kỷ mười chín, ông già có vết sẹo ở cổ đã quay lại, vừa đặt cái bọc vải lên bàn, vừa bảo tôi rằng đấy là đá lấy ở hỏa tinh các nhà thám hiểm không gian đã tặng cho tác giả truyện Kiều, và ông cụ lấy từ trong bọc ra một viên đá nhỏ đặt lên bàn, từ tốn bảo tôi: đá trời đấy, hãy cắn thử đi, tôi cứ ngồi thừ ra nhìn ông cụ, cảm thấy vô cùng hoang mang,

 

 

[Ba Mươi Bảy]

 

rồi tôi lại vùi đầu vào việc đọc, để may ra sách vở có mở cho tôi cửa ngõ hiểu biết hơn về cộng đồng người dưới chân dãy núi tôi yêu hay không, tôi nhớ lúc bấy giờ là lão ta nhìn tôi cười, vừa mới bước ra khỏi cuốn cổ thư tôi đang đọc, lão đã nhìn tôi cười ngạo mạn, chúng khạt  nhổ ra trên giấy rồi bẹo môi léo lưỡi bảo là tinh hoa trí não, đồ lừa lọc nhân gian, là lão chửi kẻ làm ra sách, tất nhiên là tôi phải lên tiếng, sách là do lớp người đi trước làm ra, và  đang nằm trên giá sách nhà tôi, nên sách là của tôi,  phỉ nhổ sách hay đốt sách không phải là việc làm hay ho, tôi nói theo cách nói của thế gian, đây không phỉ nhổ, không đốt, chỉ xé toạc vô minh, lão tà giáo xốc áo đứng lên, tôi lật đến trang cổ thư ấy thì lão ta từ những dòng chữ ấy bước ra như một kẻ vô danh, tà giáo là cái tên tôi đã gán cho lão lúc lão đã đi khỏi, còn lúc lão xốc áo đứng lên nói thì  căn phòng chứa sách của tôi như dãn ra trước thứ ngôn ngữ phong  nhiêu của lão,

 

nghìn năm triệu năm bóng trăng đáy nước, vồ lấy cái đẹp nơi dòng sông, huyễn hoặc vút tận trời, hồn chết, kẻ ở người đi, từ ngày làm ra chữ viết con người đã biết cách chơi lấy hồn ra lấy hồn vào, biết cách lấy chữ nặn ra ngọn gió thổi mây, nhưng ngươi có biết không, đấy là cách chơi của kẻ ngồi nơi đỉnh núi chơ vơ, nhưng chơ vơ là núi nào, đừng tưởng là đông vui cõi thế,  xưa có kẻ khóc cạn sạch nước mắt thì bỏ lên ngồi ở đỉnh núi chơ vơ, hóa ra lũ muông thú trên rừng cũng đang ăn nhau, bèn lấy chữ nặn ra niềm cô độc, nhưng đấy chỉ là chuyện nhỏ, 

 

còn chuyện lớn là sao, tôi cố lần dò tông tích của lão,

 

sủa là cách diễn đạt những nghĩ ngợi của chó, may ra, có trục trặc nào trong tiến hóa, nhưng chưa chắc là lũ chó không còn sủa, sở dĩ diễn đạt bằng sủa là do lũ chó không có chữ viết, con người nghĩ ra được chữ viết  quả  là chuyện lớn, đã có chữ viết mấy trăm nghìn năm nay, nhưng có kẻ vẫn cứ muốn diễn đạt theo cách của chó, chúng nó vừa sủa, vừa khạt nhổ ra trên giấy, chứ sử sách gì,

 

tôi đang đọc là sử của làng, nhưng lão tà giáo bảo chẳng phải  sử sách chi cả, tôi nói cũng có sông núi, ruộng đồng, chim chóc,  cũng có những  đàn ông đàn bà hỉ nộ ai lạc dưới bầu trời trăng sao, cũng có phân biệt giữa chánh với tà, giữa thiện với  ác, bắt đầu là sao, kết thúc là sao,  thì sao không gọi là sử sách, cứ tưởng là lão sẽ nổi giận vì cách chất vấn  của tôi, nhưng không, ồ, ta lại sợ ngươi bị chìm vào cõi tăm tối, lão lại răn bảo tôi,

 

xưa có người ngủ dưới gốc minh linh suốt mấy mươi  năm để nghĩ ra cách làm cho cây minh linh trỗ hoa suốt bốn mùa, chuyện ấy ngươi có chép trong sách ngươi đang đọc hay không, những nghìn năm qua, đám dân của làng ta vẫn âm thầm sống với mảnh đất sỏi đá, không nửa lời  oán trách, vì đất trời đã ban cho đất đai để sống thì sao còn oán trách, chuyện ấy có chép trong sách ngươi đang đọc không, những  nghìn năm qua đám dân làng ta từ thế hệ này sang thế hệ khác  vẫn cứ  chửa đẻ không ngừng để cho nước có dân, để cho đám vua chúa các triều đại có lính tráng canh giữ bờ cõi, canh giữ  ngai vàng của chúng, chuyện ấy có chép trong sách ngươi đang đọc hay không,

 

tôi bí, bỡi những điều lão tà giáo nói đều đúng cả,

 

sách chép là chép công lao trị nước của các vì vua các triều đại, là chép về  cái phép cày vua ban chứ không phải chép về cái sức cày của dân làm ra cơm áo, sách chép là chép về những thành quách lâu đài lộng lẫy của bọn vương tôn quí tộc của các đời vua chúa, là chép về rừng vàng bể bạc vốn có của nước, là chép về một nòi giống vốn sẵn tự bao  đời, một nòi giống người đông, sức mạnh, đánh giặc giỏi… là chúng nó đang sủa phải không,

lão lại tiếp tục tấn công tôi, nhưng  còn khạc nhổ, tôi lại vặn lão,

 

ca ngợi bọn vua chúa kê giường trên đầu dân để ngủ với đám  mỹ nữ thì không khạc nhổ là gì, 

 

lão tà giáo nói, và giật lấy cuốn cổ thư trong tay tôi, xé toạc một trang, là phép màu ư, từ  nơi trang sách nhàu nát lại bước ra một  người con gái, tôi thích mà sợ, cô gái choàng lên người lão tà giáo chiếc nhung y, để có sức mà xé toạc vô minh, cô gái nói, một cuộc hát thơ,

 

em đi giữa khuôn trời lạnh ngắt trăng sao, tiếng chào hàng của những kẻ cố giữ lấy giọng nói như đang nghẹt giữa kẽ nứt của đêm, gió treo ngược buổi sáng có mặt trời đã khuyết mất bình minh, em lao vào cuộc chờ chực chia phần, tiếng chào hàng như cứ tiếp tục vang lên từ kẽ nứt của đêm, chen nhau nhận lấy nhân phẩm từ những kẻ chào hàng em như gần hụt hơi giữa những buổi sáng có ánh mặt trời đã khuyết mất bình minh, các cuộc ban phát như cứ nới rộng ra, cứ nới rộng ra, mặt đất đầy dẫy những cuộc chờ chực chia phần, nhân phẩm trở thành thứ vật liệu thông dụng luôn được nói ra từ cửa miệng của những kẻ chào hàng, cho đến hôm người ta bảo em là kẻ biết chào hàng, em đã lập tức được đứng vào chỗ những kẻ chào hàng không phải để ban phát mà để nhận lấy nhân phẩm được ban phát từ những kẻ chào hàng đang cố giữ giọng nói, em như gần hụt hơi vào những sáng  những trưa những xế những chiều những đêm  để nhận lấy nhân phẩm từ những kẻ chào hàng đang cố giữ lấy giọng nói, 

 

lão tà giáo không giải mã thì  tôi cũng chẳng hiểu cô gái đã nói những gì,

 

từ làng này ra đi nên ta biết tỏng  lũ người xu thế, đầm đìa giọt sương, ta đi giữa những gào thét của lũ người thuyết lý, những kẻ chào hàng, kể từ lúc nhận ra ngọn lửa trí tuệ trong người là con người đã quen thói thuyết lý, hương thơm của những miền không có đâu, ánh sáng của những năng lực huyền bí, trực giác và vô ngôn, thuyết lý như những giọt cam lồ rưới lên nỗi  khổ đau của con người, và con người thì  chẳng hay biết tự lúc nào thuyết lý đã  trở nên thứ  phương sách hai mặt, để xích lại nhau gần nhau hơn, nhưng cũng  để thù hận  nhau hơn, nàng đã lạc vào giữa cuộc hận thù của thế giới, đứng vào chỗ những kẻ chào hàng  để có cơm ăn  áo mặc, cho đến lúc nàng chẳng còn đủ hơi sức để chào hàng thì lũ người thuyết lý đã đem ném nàng vào thứ lò dưỡng sinh đương đại, ta chuộc nàng từ tay cai ngục để kết nghĩa phu thê, lập tức lũ chúng, cái lũ người thuyết lý nhân danh chánh nghĩa  hô hoán lên rằng ta là kẻ trụy nát, ta lặng lẽ cam chịu làm kẻ trụy nát để cho tròn nghĩa phu thê, nhưng cho đến lúc lũ người thuyết lý lập đàn tế trời, kêu gọi lương dân đem sức ra phá rừng trồng kê, ta không im tiếng được, bảo rừng là trời sinh để thở dưỡng chất cho con  người, để nuôi màu xanh cho mặt đất, phá rừng là tàn phá chổ ở của con người, lập tức lũ chúng bảo ta là phản trắc, ta nói thà làm kẻ phản trắc chứ không thể để cho kẻ ngu làm cho lương dân thoi thóp, lập tức chúng đuổi ta ra khỏi làng, và ghi vào sử sách rằng ta là kẻ tà giáo, mấy trăm năm qua phu thê ta đã đi khắp thế gian để nói cho mọi người hay những thuyết lý xưa nay đám vua chúa đem ra để trị nước chẳng qua là những nước bọt đã  cô đặc  thành chữ nghĩa, nhưng ta lại lo cho ngươi rồi ra sẽ bị dẫm nát dưới chân bọn nhân danh chính nghĩa, 

 

lão tà giáo vò nát trang cổ thư ném xuống chân, nói với tôi những lời tâm huyết, rồi dắt  cô gái  bước về phía vô hạn đang mở ra ở phía trước,

 

 

[Ba Mươi Tám]

hay thế giới là những giấc mơ không có khúc cuối,

 

 

 

Giã
2008-2018