lai lịch của những cái chết

 

 

 

Cuộc đời tôi, mớ hỗn độn xương thịt và tri thức,
chẳng theo một qui cách nào cả, chẳng thể biết
trước được điều gì cả,   cứ   như những bùn đất
trên miền châu thổ của một một  dòng sông                                          

                                  

                                                                                 

1.

con chim lạc cất cánh bay từ chốn ẩm ướt sử lịch, mặt trống đồng chùng xuống, không thể là khúc cuối cuộc tuần hoàn, tôi vẫn chờ nàng, mấy trăm năm tôi vẫn chờ nghe tin tức về nàng, tôi nằm im dưới cát để chờ nghe tin tức về nàng, nắng, những mặt trời của những ngày tháng đổ lên cát những chữ, ai đang đi giữa những lời hô hét của lũ quỉ vô thường, ngôn ngữ không thể diễn hết hình thù của đương đại, những nghi kỵ, những rượt đuổi, và những cuộc chạy trốn, tôi vẫn nằm im dưới cát để chờ nàng, lũ còng ngày ngày xe cát trên lưng tôi, đám người mất trí ngày ngày dẫm lên lưng tôi, các thứ học thuyết, những thứ xác chết cũ, mới, ngày ngày theo sóng biển tấp lên lưng tôi, tôi trốn dưới cát, vẫn thấy nhớ nàng, rất nhớ nàng, ngày, cứ để cho những rác rưởi trần thế tấp lên lưng mình, đêm, lén vạch cát thử nhìn lên bầu trời sao, hay là em đã chết giữa cuộc tuần hoàn, buổi sáng tôi gào lên, tôi biết sóng biển sẽ giữ lời tôi, để gửi đi, đêm đến tôi lại bắt đầu nghĩ về cái học thuyết bưồn bã tôi đã nghĩ được, học thuyết về hạt bụi, tôi là hạt bụi của đời em, đêm đến là tôi lại bắt đầu với cái học thuyết chỉ bắt đầu và có vẻ như không thể nào kết thúc, hay là em đã chết giữa cuộc mưa nắng bất thường, một buổi sáng tôi gào lên, và nghe thấy mùi hương lạ len vào cát, hay là mùi hương bưởi tháng giêng lung lạc con chim lạc đang vỗ lên âm vang trống đồng, nhưng không thể là mùi hương bưởi tháng giêng bỡi tôi nghe thấy có vẻ gì như mùi gấm vóc vừa mới lôi ra khỏi khuê phòng, hương gấm vóc, một cuộc dịch chuyển nào đó khỏi nơi khuê các, tôi vùng lên khỏi cát, một buổi sáng thật bình yên, nắng thơm mùi tóc, tháng giêng gấm vóc, hay là ông đang đi tìm em, người con gái trần truồng bước ra khỏi bức màng vây trên cát, nhìn tôi, nói, nàng đẹp man dại, con chim lạc cất cánh bay từ chốn ẩm ướt sử lịch, hay là cách thức trị nước của ông vua huyền thoại mới khiến em đau khổ đi lang thang, tôi nghĩ, và âu yếm nhìn nàng, tôi đã có được những tin tức về nàng,

 

2.

lũ chó đá ở đền Các Vua trông thấy tôi thì sủa váng lên, có dừng lại nơi này cũng chỉ vì trên đường đến hoàng cung tôi phải ngang qua đây, ngôi đền thờ các vì vua đã khuất, cũng chẳng biết lũ chó sủa tôi hay sủa chiếc áo khất sĩ tôi đang mặc trên người, lũ chúng có vẻ gì đấy như đang rơi vào nỗi sợ hãi bất thường, hay là chúng đã nhìn thấy những ý nghĩ trong tôi, những ý nghĩ mơ hồ và có phần phóng túng về ngôi đền tôi còn biết quá ít, quả tình chưa có sử liệu nào chép về các vị với một phương pháp nghiêm túc, tôi biết được [rất ít] về các vị chỉ là nhờ vào những bài viết có tính thông tin báo chí, và phần lớn là nhờ vào những tư liệu truyền miệng [bỗng người đứng lên hô hét, hỡi các loài hoa hãy nở ngát hương, và hỡi các ruộng đồng hãy cho thật nhiều lúa khoai, bỗng người từ rừng bần rừng đước bước ra, thân thể của người còn bám đầy muỗi vắt, hỡi anh em ruột thịt hãy cùng tiến về phía trước, giọng nói của người cứng như ánh thép, người luôn là kẻ đi đầu trong công cuộc cứu quốc và kiến quốc, bỗng người từ tăm tối bước ra, rủ sạch những lầm than nô lệ, người là ánh đuốc cháy rực giữa cuộc bể dâu, bỗng người cất lên thứ tiếng nói như được đúc kết từ trong máu lửa, tiếng nói của người là sự khẳng định, quyết định, không còn phải nghĩ ngợi, người nói với mọi người, tiếng nói của người là chân lý của thời đại…] những câu chuyện về những vị vua nơi ngôi đền như những huyền thoại đương đại, một thứ lịch sử truyền miệng đầy kịch tính, thi tính, triết tính, khiến tôi cảm thấy vô cùng rối rắm, vậy thì điều gì đã xảy ra trong quá khứ đất nước tôi, nhưng lũ chó đá ở đền Các Vua lại sủa váng lên khi nghe tiếng hát của ông già mù, ông già nghệ sĩ mù ngồi tựa lưng vào một trong những con chó đá, vỗ trống, hát, như thế là lũ chó dị ứng với cả tiếng ca và tiếng trống của người nghệ sĩ mù chứ chẳng phải chỉ dị ứng với mỗi mình tôi, cũng chẳng rõ ông lão đã đến đó tự lúc nào, khi thử dừng lại nơi này tôi đã nhìn thấy ông ngồi tựa chó đá mà ngủ, một người mù vừa tỉnh ngủ khiến cho lũ chó bất an,   sao lũ chó ở đền Các Vua lại nhạy cảm đến thế nhỉ, mặc lũ chúng sủa, ông lão cứ vỗ trống hát, …như gấm cuộn, như lụa giăng, cỏ rừng, hoa suối, hoặc màu biếc đung đưa, hoặc màu hồng rực rỡ, xa xa mà vắng không, sâu thẳm mà lặng lẽ…tôi hỏi có phải là ông đang hát trong Thanh Hư Động Ký của ông nghè Nhị Khê hay không, không đáp, ông lão vẫn vỗ trống hát, …trong vũ trụ, tạo hóa bày ra những cách như thế để chờ đợi người cũng nhiều…như thế là suối nguồn được gạn trong, cỏ rác được dọn sạch…nhưng tiền bối là người từ nơi khác đến hay là người của kinh thành này, tôi hỏi, và cứ cảm thấy như sắp được nghe điều gì hệ trọng, thưa ngài, kẻ hèn này đến từ kinh thành này nhưng là kinh thành những trăm năm trước, ông già nghệ sĩ mù đáp với lầm tưởng tôi là kẻ quyền cao chức trọng ở chốn kinh thành, một kinh thành như gấm cuộn hay như lụa giăng, một kinh thành trong sạch đến cả vết xe ngựa trên đường, tôi như nhìn thấy được thứ ký ức đẹp như hoa gấm nơi người nghệ sĩ hát rong, nhưng ở cái tiệm ăn ấy lại là một giang sơn khác, quả thực đấy là chốn tụ tập của những nhà chép sử truyền miệng, bọn họ đang nói về đủ thứ chuyện kinh thành, đĩ điếm, trộm cắp, lũ con gái đi làm ca nhi, bọn thầy thuốc đồi trụy mua bán nội tạng của những người nghèo, đám chính trị gia sát hại nhau cả bằng chữ nghĩa cả bằng những chất độc của khoa học hiện đại, tôi tạt vào tiệm ăn ấy để ăn bát phở cho đỡ đói trước khi tìm cách thâm nhập vào hoàng cung, đám thực khách lập tức dồn mắt về phía tôi, rồi nhìn nhau, mỉm cười, rồi như không hề có chút ngạc nhiên nào về chuyện một khất sĩ để tóc dài, và ăn mặn là tôi, kinh thành như đang giấu trong nó cả những hoàn thiện cổ kính lẫn những cung đàn lỡ nhịp,

3.

tôi nhân danh người tu hành không nói dối để nói dối với quan thị vệ rằng danh tiếng ngài ấy người kinh thành ai cũng biết, thật ra, tôi chẳng biết ông là ai, khi nhìn thấy ông quát tháo đám thị vệ, tôi bỗng nghĩ ra cách nói dối với ông ta để may ra có vào được hoàng cung hay không, lập tức vị quan già háo danh đón tiếp tôi như một khách quí, có thể là lời nịnh nọt của tôi khiến cho ông quan háo danh không còn   thấy một nhà sư để tóc là điều bất thường, khi đã ngồi uống trà và trò chuyện với quan thị vệ tôi cứ cho là mình sắp đạt được mục đích, tôi sẽ vào tận cung phòng của nàng để lấy những đồ dùng cần thiết cho nàng, và nàng sẽ rất vui khi thấy tôi trở lại với bao nhiêu thứ tôi hứa sẽ mang về cho nàng, nếu không có quân hầu mời quan thị vệ với khách dùng bữa tối, tôi đã quên mất là mình đang ngồi giữa hoàng cung để nghĩ ngợi về nàng, có cơm chay cho nhà sư đấy, quan thị vệ nói, tôi cho là trời đã giúp tôi, như thế là ông quan già háo danh muốn giữ chân tôi, tuy vậy, cơm tối xong, tôi vẫn giả nói lời ra đi, ta cần có nhà sư để chuyện trò, quan thị vệ nói như thể ra lệnh tôi phải ở lại đêm với ông, tôi có cảm tưởng hoàng cung về đêm như một cảnh trần gian biệt lập, có thể là sự yên tĩnh được thiết lập từ một thứ quyền uy tuyệt đối,

mùa thu năm Tỵ, tự dưng có loài chim lạ bay đến đậu trên mái nhà hội quân thần, chỉ qua một đêm lũ chim ỉa phân nhiều đến đỗi làm sập một góc mái chánh điện, vua cho hội các quan, đây là điềm quốc thái dân an, vua nói, các quan cùng nói, đây là điềm quốc thái dân an, ta, tên lính hầu mới được tuyển vào cung, nên ta cũng nói, đây là điềm quốc thái dân an, mùa đông năm Sửu, nước con sông lớn tràn ngập mấy tỉnh phía bắc, cuốn trôi nhà cửa của dân, người và súc vật chết hằng trăm hằng ngàn, dân các tỉnh bị ngập lụt kéo tới kinh thành hò reo đòi treo cổ hết đám quan lại đã lấy cắp tiền làm đê điều cho dân, vua liền họp các quan, đây là đám dân làm phản, quyết không tha bọn chúng, vua nói, các quan cùng nói, đây là đám dân làm phản…, ta, lính hầu của vua lén nhìn thử mặt vua thấy có nhiều sát khí, nên cũng vội nói, đây là đám dân làm phản…mùa xuân năm Tí , vua cho xây thêm đàn tế trời ở phía nam, dân phu trưng tập ở các tỉnh trong nước, gỗ quí lấy ở các rừng trong nước, sau ba năm đàn làm xong, dân phu chết gần ba trăm, vua lên đàn nói lớn, nhờ hồng phúc các bậc tổ tiên nên ngày nay dân no ấm, các quan quì dưới   đàn cùng nói lớn, nhờ hồng phúc tổ tiên nên ngày nay dân no ấm, ta, lính hầu vua thấy vua trừng mắt nhìn mình, nên ta cũng vội nói, nhờ hồng phúc tổ tiên nên ngày nay dân no ấm… ta được tuyển vào cung năm mười tám, giờ thì bảy mươi, hơn năm mươi năm làm lính thị vệ, rồi làm quan thị vệ, hơn năm mươi năm ta hầu vua, hơn năm mươi năm ta đã bị người ta thiến cả lời nói lẫn những ý nghĩ,

cho đến lúc quá nửa đêm quan thị vệ vẫn còn nói, nhà sư có hiểu những lời ta nói hay không, ông dừng lại, hỏi tôi, rồi lại tiếp tục nói, tôi mệt nhoài, gục xuống, nghe có tiếng gì như tiếng then cửa nhà ai, cửa mở, tôi bước vào, một lũ người không đủ tuổi đang ca ngợi vị thần mình người đầu dã thú, nhà ngươi hãy nói gì đi chứ, bọn họ quát, tôi giật mình, mở mắt, chẳng thấy quan thị vệ đâu cả, chỉ thấy cuốn sách đang mở trước mặt, nhìn thử, thấy bìa đề Sách Toàn Thư,

4.

tôi trở lại ghềnh đá thấy lũ cua biển đang công kênh nàng trên cát, mỹ nhân hề, gửi thân giữa cuộc thế như ngọn cỏ giữa gió …lũ cua đọc thơ ai vậy nhỉ, có vẻ như là đang diễn ra câu chuyện huyền thoại, và tôi biết những huyền thoại đương đại có những cốt cách khác trước, sự bùng nổ thao thức về một thế giới các vật thể cùng tồn tại bình đẳng giữa thứ âm vang dai dẳng của cuộc tiến hóa không hề có kết thúc, như đứa trẻ, nàng cứ gào lên khi thấy tôi mặc áo tu sĩ, tôi tả cho nàng nghe những đoạn khúc hiểm nguy, sự thể là một cuộc đánh cắp mang tính hiệp sĩ, tôi là hiệp sĩ của   đời em, hiệp sĩ bận áo khất sĩ lang thang vào chốn kinh thành, tôi phải vào kinh thành để lấy các thứ đồ tế nhuyễn cho nàng, lúc mới gặp nàng thấy nàng chỉ mặc mỗi bộ quần áo trên người tôi đã nghĩ ngay tới điều này, tôi tả cho nàng nghe trên đường đến kinh thành tôi đã làm cách thế nào để lẻn vào một tịnh xá lấy cắp áo nhà tu mặc cho thế gian nguyền rủa, cả đêm ngồi giữa hoàng cung chuyện trò với quan thị vệ, nghe đám nữ tì của nàng đùa giỡn suốt đêm, tôi cứ muốn sang vặn cổ bọn người vô liêm sỉ, làm sao nàng bỏ hoàng cung ra đi bọn họ không buồn nhớ lại đùa giỡn thâu đêm, nhưng làm sao đang đêm một tu sĩ lại độn nhập vào chỗ ở của lũ con gái, tới lúc đó tôi mới thấy là mình đã sai lầm [trong trù tính đột nhập vào chỗ ở của nàng trong hoàng cung] sáng ra, không thấy quan thị vệ đâu cả, tôi chạy một mạch đến chợ kinh thành mua các thứ áo quần giày mũ cho nàng, như đứa trẻ, nàng nhảy nhót reo vui khi trông thấy quần áo mới, chẳng lẽ ông phải khổ suốt đời vì em, nàng nói, tôi giật mình về sự thể đang diễn ra, thì ra là nàng đã dứt áo ra đi, em quyết định từ bỏ hoàng cung để đi với tôi sao, tôi nghĩ, và cứ thấy hoảng hốt trong lòng, phải có một sự liên quan nào đó giữa quyết định của nàng và những gì tôi nghe được ở quan thị vệ, tôi không biết, và cũng không muốn biết, có một điều tôi phải biết ơn cái tịnh xá đã giúp tôi vào được hoàng cung một cách bình yên, xin cám ơn thế giới, tôi nói, và cởi chiếc áo khất sĩ đặt lên ngọn sóng, biển sẽ mang lời ông đến mọi nơi, nàng nói, lời nói của nàng lập tức khiến tôi trở nên mạnh mẽ khác thường, bất chợt tôi không còn cảm thấy nỗi sợ hãi nào, tôi sẽ không còn chạy trốn cuộc sống, đêm đầu tiên ở ghềnh đá tôi có cảm thấy bất tiện, phải mất hằng trăm triệu năm sóng biển làm công việc bào mòn mới tạo được cái hang đá nơi ghềnh đá chỉ vừa đủ cho hai người nằm, để cho thế giới nhìn thấy chúng tôi hoàn toàn trong sáng, tôi và nàng đã nghĩ ra cách chúng tôi nằm duỗi chân về hai phía và hai đầu cụng vào nhau, những hòn sỏi nhẵn thín nằm lặng lẽ dưới lưng tôi, và thứ ánh sáng màu nhũ bạc trong hang, và cả những âm vang của biển đang tràn vào hang, thứ quá khứ đầy bí ẩn ấy bắt đầu tác động nhận thức của tôi, vào khoảng nửa đêm những cơn sóng lớn bất chợt ập vào bờ, biển động, nàng gọi tôi hỏi đã ngủ chưa, tôi nói chưa, em vừa nhìn thấy một hòn đảo, và giờ thì em phải đi, nàng nói,

5.

rồi bỗng nàng gọi được tên con sông, gọi được tên những dòng sông, bỡi những trăm triệu năm trước tổ tiên nàng đã gọi được tên những con nước chảy ngang qua mặt đất, nó là trí nhớ bầy đàn, rồi bỗng nàng gọi được tên buổi hoàng hôn, lãng đãng cánh chim nhớ núi, những đám mây lơ đễnh bóng đêm, và thứ sắc màu của vô định, và lặng lẽ một chút âm vang vô bờ bến, lặng lẽ một chút nắng cuối ngày, bỗng nàng gọi được tên thứ vật thể đang chen giữa cái đang lặng lẽ qua và cái đang lặng lẽ đến, hoàng hôn, nàng đã gọi được tên hoàng hôn, bỗng nàng có được thứ năng lực ấy bỡi những trăm triệu năm trước tổ tiên nàng đã hóa giải được khoảng cách tưởng chẳng bao giờ hóa giải được, tổ tiên nàng đã bước vào được những cuộc trùng phùng của các vật thể, tự những trăm triệu năm trước tổ tiên nàng đã nhìn thấy được buổi giao thoa của trời đất, và gọi tên nó, có thể, khi   nhìn thấy bóng đêm đổ xuống, tổ tiên nàng cất tiếng réo gọi những người thân bước vào hang động, chỉ thế, và sau đó, thứ năng lực tiếp cận ấy hòa vào dòng chảy bất tận, trí nhớ bầy đàn, nhưng sự thể khi đến lượt nàng có thể trở nên rộng lớn hơn, ngoài việc gọi được tên hoàng hôn có thể nàng còn cảm thấy buồn, rất buồn, có thể là một thế giới đang tồn tại không như ý muốn của nàng, trí nhớ bầy đàn khi truyền tới nàng trở nên phong phú và phức tạp, rồi bỗng nàng thấy tức giận khi có kẻ khác lấn chiếm chỗ ở của mình, nàng biết tức giận bỡi những trăm triệu năm trước tổ tiên nàng đã biết tức giận, những trăm triệu năm trước có thể tổ tiên nàng quát lên, đồ tham lam, khi có kẻ đem hạt ngô trỉa lên nương rẫy của mình, có thể tổ tiên nàng đã đánh chết kẻ tham lam, và sau đó, có thể, chẳng có chuyện gì nữa, nhưng khi đến lượt nàng thì sự thể có thể chẳng còn đơn giản, những khái niệm mới nảy sinh, xâm lược và chống xâm lược, những sự thể như những đám mây u ám luôn phủ lên cuộc tồn sinh, lòng căm thù kẻ xâm lấn đất đai được thiết lập trên tình yêu xứ sở, tình yêu bầy đàn khi truyền đến nàng thì trở nên rõ ràng, minh xác và vĩ đại, nền tảng của trật tự thế giới,

và, rồi bỗng nàng nhìn thấy một hòn đảo, nàng nói với tôi là nàng đã nhìn thấy hòn đảo, và nàng phải đi, tôi biết đấy là giọng nói của thời gian,

6.

tôi quí chút tháng năm ấy như một thứ thông điệp bất ngờ gửi đến cuộc đời tôi, rằng giữa bốn bể thế sự trùng điệp cát bụi tôi không phải là kẻ cô độc,

vẫn còn có người đến với tôi,

em, không phải chỉ là biển hay một buổi chiều hơi hoang vu theo nghĩa thông thường, ngần ấy sự kiện của năm tháng có vẻ như chẳng là gì, nhưng lại làm được một cuộc lắng đọng qui mô, từ đó là những lạc lối,

có cái gì tựa niềm hạnh phúc vấn vít tôi, tiếp sức tôi, tôi bỗng thấy mình có đủ sức gạt bỏ hết thảy những đa phức phiền tạp đã trở thành hệ thống tù đọng của cuộc sống, tôi lạc vào tình cảnh của kẻ đang lạc vào một cuộc tình,

hay là sự khởi lên từ tiếng biển vỗ vào bờ một chiều hơi hoang vu như bắt đầu cho một cuộc hòa điệu dai dẳng, tôi luôn sống trong âm vang dìu dặt như thể em đang hát cho tôi nghe những bài thơ mới lạ,

hay là màu nắng của buổi chiều hơi hoang vu có sức khuấy động vô thức trong tôi, biển cũng vỗ vào bờ những điệu thức khúc chiết, cuộc chuyện trò với em như sự đánh động những góc khuất của thế giới, những mảnh tình riêng cứ vang lên giữa cát bụi, có vẻ như tôi là cuộc hồi ức vô tận, tôi cứ thấy tôi với chút năm tháng ấy, và mưa nắng cứ đổ xuống tôi, tôi đi, niềm xao động trong trí nhớ tôi cứ thôi thúc tôi, thấy nắng mặt trời đẹp hơn, thấy con đường trước mặt rộng hơn, em, khoảnh khắc ấy bỗng xen vào dòng thời gian trong tôi như một tín hiệu của niềm vui, tôi cảm thấy như chẳng còn nỗi sợ hãi nào nơi mặt đất nhiều biến động, cứ thấy tiếp tục vẽ lên trí nhớ tôi, buổi chiều hơi hoang vu, và biển, niềm xúc cảm có vẻ nghiêm cẩn, em, tôi chẳng dám gọi tên niềm xúc cảm của tôi, cứ để nguyên thế trong trí nhớ cho đến khi không còn im lặng được thì kêu lên trong tâm tưởng như thể biện bạch cho khoảnh khắc đối với cuộc đời tôi là một sự cố,

nàng đã cho tôi chút tháng năm lãng tử,

7.  

sự thực thì biển cũng chỉ là khoảng không gian cho sự bắt đầu một cuộc chuyện trò, một dòng chảy, bất chợt, nhưng là một chuyển động đã khởi lên từ lâu, từ rất lâu sự đồng điệu đã khởi lên trong hai cơ thể, ăm ắp nỗi niềm, sự đồng điệu như cùng chảy từ một cội nguồn trong vắt, cuộc chuyện trò như sự bùng vỡ cảm thức của hai con người vô cùng thân thiết, ngay phút đầu hội ngộ chúng tôi đã ôm nhau thật chặt   như hai con suối đã tìm được nơi hòa nhập, có bao nhiêu đường đi trên mặt đất và bao nhiêu kẻ muốn gặp nhau nhưng không được bỡi chưa tìm được cách đi, nàng nói, buổi chiều đầu mùa thu, nắng sắp tàn, biển vẫn vỗ vào bờ không ngớt, tiếng sóng cũng vội vã như cuộc chuyện trò của chúng tôi, nói, ngoài nhu cầu có tính bản năng của con người trong cuộc sống   còn là một cách thức để con người tồn tại như một vật thể có tư duy, có quá nhiều sự thừa thãi trong thời buổi hôm nay, khói, bụi, tiếng ồn, và sự nhiễm độc… những thừa thãi của văn minh đương   đại, sự tùy tiện và lãng phí ngôn ngữ trong rao giảng luân lý, triết lý, trong diễn thuyết, trong ngoại giao thuyết, trong trước tác…những thừa thãi của nền nhân văn đương đại, và cả sự thừa thãi của cái chết, mặt đất đã đón nhận quá nhiều cái chết không đáng có, bất chợt chúng tôi   cảm thấy thời gian như không còn đủ chuyên chở những ý tưởng tích lũy trong hai chúng tôi, nắng sắp tắt, trước mặt chúng tôi biển có vẻ như hẹp hơn, có con tàu đang ra khơi anh à, nàng buột kêu   như thể sự dịch chuyển đang tác động lên cảm nghĩ của nàng, sự bao la của biển có lúc cũng bị thu hẹp bỡi những dao động trong   nghĩ ngợi con người, thế giới và cảm thức, cặp đôi chủ thể và khách thể luôn tồn tại trong chao đảo và bất an, tôi nghĩ thật nhiều về thế giới, và cảm thức về tồn tại thì mang lại thật nhiều cho con người ta cả niềm vui lẫn nỗi sợ hãi, nàng nói, tôi nói tư duy về tồn tại, một   sứ mệnh nghiệt ngã con người chẳng thể từ nan, những ngông cuồng của những suy nghĩ bất cập và sự cạn kiệt lòng trắc ẩn của đương đại đã dẫn đến sự vụn nát của thế giới, lịch sử vốn muốn làm cho nguyên vẹn, nhưng chính lịch sử lại làm cho thế giới vụn nát, một con tàu nữa lại ra khơi anh à, nàng lại buột kêu như thể đi là thứ bản năng vô thức luôn thúc đẩy con người, biển cũng chỉ là khoảng không gian cho một cuộc chuyện trò, có nghĩa chúng tôi còn phải lên đường,

8.

tôi nằm dài trên những con sóng, và chờ, hay là em đang muốn làm một cuộc bùng nổ vỡ toang những ảm đạm trong khám phá hữu thể nhận thức, trắng đêm tiền sử, hiểu biết của loài ốc suối, hay ngọn lá nhìn thấy được cách thức chuyển động của gió, cũng ngang bằng với việc phát hiện mầm cây, hay là em đang bị cưỡng bức quay trở lại nơi bắt đầu cuộc hành trình, tôi nằm dài trên sóng, và nghĩ ngợi về nàng, và bắt đầu thấy chán ngấy cái thế giới luôn dấu trong nó những sự thể cũ kỹ, rách nát, rặt mùi dạy bảo, chính trị dạy bảo, văn chương triết học dạy bảo, dày cộm những thi viện, sử viện, triết viện, không, cứ gọi đó là những chỗ chứa những nghĩ ngợi của con người, trùng điệp những lý thuyết, lập thuyết, và học thuyết [hay thuyết học, cũng thế] trùng điệp những tuyên ngôn, tuyên bố, tuyên truyền, trùng điệp những hiệp nghị, hiệp ước, trùng điệp những nghị sự, nghị quyết, trí não đương đại như thể không còn chỗ để vui vẻ hay giận hờn [ hay nghìn năm sau cơn gió dữ vẫn còn thổi làm rách nát tàu chuối sau hè] tôi nằm dài trên ngọn sóng và nhìn thấy nàng chấp chới giữa những khoảnh khắc đang nghiêng về phía tàn lụi, làm sao em lại ra nông nỗi này, tôi gào lên, nhưng dường như mọi việc là đang rất bình thường với nàng, đừng sợ, em vẫn là sứ giả của những cuộc đảo lộn trong nhận thức thế giới, nàng nói, cứ sợ mình nghe nhầm, tôi bảo nàng hãy nhắc lại những điều vừa nói, là em luôn dịch chuyển giữa bụi bặm và đang có nhiệm vụ mang lại cho con người thời có sử viết những ảo ảnh lộng lẫy huy hoàng, tôi nghe giọng nàng có vẻ gì rất lạ [hay đang xảy ra một cuộc cưỡng bức man rợ] nhưng còn thời chưa có sử viết thì sao, tôi cố thét to hơn tiếng sóng, nó là bão táp và em chỉ là một trong những mảnh nhỏ của bão táp, tôi nghe giọng nói nàng xa dần, rồi mất hút giữa những gào thét của sóng biển, có phải là đại hồng thủy không nhỉ, những cơn sóng dồi tôi lên cao, rất cao, cứ tưởng sẽ văng khỏi biển, nhưng không phải, một cuộc lưu đày giữa trùng dương, khi thấy mình bỗng tụt xuống chốn thăm thẳm của nước, tôi liền nghĩ đến việc không còn được gặp nàng, sẽ vĩnh viễn không còn được gặp nàng, nhưng đấy chỉ là sự đùa cợt của tạo tác, có ai đấy lại thét vào trí nhớ tôi, ai lại đến với mình những lúc thế này nhỉ, tôi lờ mờ nhìn thấy một gương mặt, không phải, một hình hài, đang bước giữa cuộc tuần hoàn, đừng sợ, chỉ là những đoạn khúc của thời gian, dường như là một hình thể ngôn ngữ đang nói trong tâm trí tôi, những cơn sóng lớn vẫn đang quật tôi lên cao, xuống thấp, một cuộc lưu đày giữa đương đại, hay là những núi băng ở hai cực mặt đất đang tan, đại hồng thủy của thời có sử viết, tôi nghĩ, và buồn bã nhìn thấy một ngọn núi thân quen trong trí nhớ mình [núi nào vậy nhỉ] chiếc thuyền gỗ mắc trên đỉnh núi đang mục rã thành những trang viết chằng chịt những chữ hình nêm trên những phiến đất nung nằm lăn lóc bên dưới đất đá, những bình luận của người đời có kèm trích dẫn lời cổ thư…ngày mười bảy tháng ấy vào ngày ấy tất cả các mạch nước của vực thẳm vĩ đại bật tung các cổng trời mở toang [cổ thư nào vậy nhi] em hãy chờ tôi ở đó, tôi chợt gào lên khi nhìn thấy một trận đại hồng thủy cũ hơn, nhưng cuối cùng thì tôi đã không chết, sóng giạt tôi vào hòn đảo, thứ tôi nhận ra đầu tiên trên hòn đảo là mùi tóc nàng, hương tóc, tôi biết rồi, trong cuộc tiến hóa khắc nghiệt, em chỉ là hương thơm còn sót lại giữa bùn đất,

9.

tôi, rác rưởi, và cơ man đổ nát trong cơn lũ biển giạt lên hòn đảo, một quang cảnh hoàn toàn ảm đạm [như có ai xé nát thế giới thành nhiều mảnh và ném lên hòn đảo] xác động vật có trí tuệ, xác động vật không có trí tuệ, cây cối, xe cộ, nhà cửa, gạch đá, bùn đất, tôi không biết những thứ cổ kính ấy từ đâu trôi giạt tới, từ các châu thổ sông Nil, sông Tigre, sông Ấn… hay từ các miền văn minh Ghana, Mali, Óc Eo, Đông Sơn, Dương Tử, Palmyra, Papuan, Maya… những rìu đá, cuốc đá, những mũi tên đồng, mũi tên sắt, những thứ vật thể cổ kính tôi từng nhìn thấy hình ảnh chúng trong các cổ thư hay nhìn thấy chúng ở những nhà tàng trử các hiện vật khảo cổ, cơn lũ biển đã tràn qua những phố thị, đồng ruộng, núi đồi, chạm tới những nền văn minh xưa nhất của con người, gần như quên hết những hiểm nguy vừa trải qua, tôi bị cuốn hút chăm chú vào đống văn bản hư nát đang vùi giữa những rác rưởi bùn đất, bằng đất nung có, bằng thẻ tre thẻ gỗ có, bằng giấy cói giấy dó có, những ghi chép của thế giới, có lẽ bị cơn lũ biển cuốn đi từ những hầm mộ các bậc quân vương, hay từ các tự đường của những dòng họ vương tôn, quí tộc, hay từ các tàng trử văn khố, tất cả đều bị nhàu ướt, rách nát, bể nát, không đọc được, tôi cứ thấy mình bồng bềnh trên đám văn tự đang gặp nạn, có thể đó là lời của một vì vua, vương quốc này mãi mãi là của dòng họ nhà ta, những tham vọng như những lệnh truyền được chép lên đất nung, có thể đó là những khế ước chiến tranh [những cuộc chiến trăm năm, ba mươi năm, hai mươi năm …] tạm ước ngưng bắn, hòa ước ngưng chiến, hiệp định hòa bình, có thể là những văn bản cắt đất, nhường đất, hay bán rẻ giang sơn tổ quốc cho kẻ thù của đám vua chúa hèn hạ, tôi ngồi lựa nhũng mảnh vỡ của quá khứ ra khỏi những rác rưởi trong tâm trạng rối rắm bất an, hóa ra lịch sử cũng giống cơn lũ biển cuốn đi nhiều thứ của con người, tôi biết cuối cùng là máu và xương còn lưu trong đất, không, nhất định đó là xương người lẫn với xương ngựa và xương lạc đà [ tôi cũng vẫn thường nhìn thấy hình ảnh chúng trong các sử thư về những cuộc chiến đẫm máu của loài người] bên cạnh đống văn bản đổ nát là đống xương người lẫn với xương đám động vật là vật cỡi của con người trong các cuộc chiến, cơn lũ biển đã lôi đám xương tàn ấy từ nơi nào vậy nhỉ, tôi không biết, từ sa mạc Ả Rập [ với xương người và xương lạc đà của đoàn quân Khalid tàn bạo vùi trong cát trắng trải dài phía đông sông Nill] hay từ các sa mạc Ba Tư [thì em vẫn thấy ta ngủ say cùng men rượu, những vần thơ của Omar Khayya với xương người và xương ngựa của đoàn quân Gengis Khan hung bạo cùng vùi trong cát sa mạc Maranjab hay Varzaneh] nhưng cơn mưa thình lình đổ xuống hòn đảo làm lộ ra cái xác tượng quỉ quái khiến tôi hoảng sợ, một cái thây ma bằng xi măng cốt thép, chẳng lẽ là hắn đã bắt người ta tạc tượng cho hắn, và đã bị cơn lũ biển kéo lên hòn đảo, gương mặt bành bạnh, ánh mắt bành bạnh, nụ cười bành bạnh, chính là hắn rồi, hắn nói với mọi người rằng hắn rất yêu sự yên bình của thế giới, nhưng mới hôm nào hắn chỉ tay vào tôi, nói thật lớn, tao sẽ biến xứ sở của mày thành châu quận của tao, tôi quyết phải chôn hắn lại trong cát tôi mới thấy hết sợ, nhưng ông cụ từ ngoài biển bước lên hòn đảo bào tôi đừng chôn, cứ để thế cho mọi người nhìn rõ gương mặt gian xảo đê tiện của hắn, giọng nói ông cụ vang cả hòn đảo, tôi biết ông đến từ một hội nghị thi ca, bỡi tấm phù hiệu đeo trên ngực áo của ông có dòng chữ : Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa,

10.

đánh thức tôi là một người con gái [tôi biết là nàng, nhưng vì còn ngái ngủ nên tôi chưa thể nói gì] ông đã ngủ suốt mấy trăm nghìn năm, nàng nói, tôi bước ra khòi một giấc mơ dài đến tận thời con người chưa tìm ra lửa, đang chu kỳ băng tuyết cuối của kỷ băng hà, chu kỳ wurm, giá buốt, các đồng cỏ xa van đang bị đẩy lùi xuống phía nam, tôi và nàng vượt qua sa mạc Sahara vào những ngày giá lạnh, để trốn khỏi loài ruồi tse tse gây bệnh buồn ngủ chết người tôi với nàng cùng bè bạn chúng tôi phải rời bỏ châu Phi, nơi chôn nhau cắt rốn, tiến về phương bắc, đêm Sahara kỳ diệu đến kinh ngạc, tiếng gió trải qua biển cát như thứ tiếng thở bí ẩn của nghìn năm, và sắc màu tro bạc của đêm như thể tấm phông màn vĩ đại của trời đất đang mở rộng đến cõi tận cùng của nhận thức, chốc chốc nàng dừng lại, đứng vào lòng tôi, ra hiệu rằng nàng đang yêu tôi, tôi cũng ra hiệu là tôi cũng đang yêu nàng, trên bầu trời trên đầu chúng tôi có lẽ là lũ sếu đến từ hồ Chad vĩ đại đang thả những tiếng kêu rộng lượng uyết…uyết…lại đây, Suleiman, hát cho tôi nghe nào… em cứ chất đầy tội lỗi đi, bao nhiêu cũng được, thượng đế sẽ bớt thịnh nộ em, đừng sợ, tôi cứ muốn đọc to lên những câu thơ tình ái đắm chìm trong nhan sắc giai nhân và men rượu của Abu Nuwas tài hoa của Ba tư cổ kính, nhưng chợt nhớ là bấy giờ, ngoài ánh mắt và cử chỉ đôi tay, chúng tôi chẳng có một ngôn ngữ nào khác, bước đi trên chiếc cầu Gibraltar [eo Gibraltar bấy giờ là cầu nối Maghred, nơi mặt trời lặn của châu Phi, với Iberia, doi đất tai ương của châu Âu] cứ nghe như có nước chảy dưới chân, trò chơi của tạo tác, đống cứng, và tan chảy, chỉ là tưởng tượng, tôi và nàng và bè bạn chúng tôi là đang bước trên dãi đất hẹp vừa mới nổi lên trong đợt biển lùi, dãy Atlas dọc dài miền Maghred phong nhiêu đã thực sự ngăn cách chúng tôi với châu Phi, nơi chôn nhau cắt rốn của chúng tôi, khi bước vào hang động Antamira trên doi đất Iberia tai ương là chúng tôi đã xa quê hương mấy chục nghìn năm, và phải thêm mấy chục nghìn năm nữa mới qua được phía bên kia ngọn Pyrenees, mãi những nghìn năm sau người ta gọi là đất Gaul, xứ con gà trống Gauloir, còn bấy giờ đồng cỏ xa van đang trải rộng, chúng tôi đi săn sư tử, bò rừng, tuần lộc, giữa tôi và nàng tình yêu đã chuyển sang một đoạn khúc tinh tế hơn, tôi đã nhìn thấy lòng thủy chung trong những nhịp đâp nơi trái tim nàng, và nàng thì biết được niềm xúc động trong ánh mắt tôi, một người bạn đã vẽ tôi và nàng lên vách hang Lascaux ở đất Gaul, nhưng chẳng hiểu sao những trăm triệu năm sau chỉ thấy những nhà chép sử nói đến mỗi con tuần lộc trong hang động Lascaux, có nghĩa, có sự nhầm lẫn hay thiếu sót nào đó trong quan điểm sử học, còn chúng tôi thì không nhầm lẫn khi quyết định phải di chuyển đến miền trù phú phía bên kia eo Bospho, miền đất về sau các nhà chép sử gọi là vùng lưỡi liềm phì nhiêu Tây Á, đồng cỏ xa van trải rộng quanh hồ lớn nước ngọt những trăm triệu năm sau mới thành biển Chết [ biển Đen] cá trên hồ, các loài động vật trên xa van, hồ nước ngọt là cái bẩy săn thú, chúng tôi sống thành bầy đàn để đuổi con voi ma mút hay con sư tử mắc lầy trên hồvà chia xẻ cho nhau từng miếng ăn từng nỗi buồn vui [một người chết cả bầy đàn khóc, thứ bầy đàn những trăm triệu năm sau phân hóa thành những dân tộc, thành những phe cánh, phe đảng với bao nỗi thống khổ ] chúng tôi đã làm được nhà ở bằng xương và da lũ voi ma mút, chấm dứt thời hang động, suốt mấy nghìn năm chúng tôi ngồi trong những ngôi nhà định mệnh nghe cá quẫy trên hồ, nghe chim hót trên ngọn Ararat, lửa, một ngày trong thứ niên đại tính bằng nghìn năm, chúng tôi đã gọi được tên thứ vật thể đang hiện diện trên khắp các ngọn núi lớn trên mặt đất, lửa trên dãy Andes, lửa trên dãy Rocky Mountains, trên Alps, trên Atlas và Hymalaya [xin cám ơn các hỏa diệm sơn và cám ơn phong ba sấm sét] chúng tôi ôm nhau hò reo, nhảy múa, tư dưng chúng tôi biết hát, như thể đang nhớ lại những điều gì từ lâu đã thuộc về mình, em yêu ông nhiều lắm, tôi cũng yêu em nhiều lắm, lần đầu tiên chúng tôi nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của con người [thứ ngôn ngữ những trăm triệu năm sau phân hóa thành những lời giả dối, lừa dối], băng kỳ wurm kết thúc, băng tan, nước biển Giữa [Địa trung hải] phá eo Bospho tràn qua hồ lớn nước ngọt cuốn đi cuộc sống bè bạn tôi, cuốn đi người con gái tôi yêu, tôi ngẩn ngơ nuối tiếc một đoạn đời đẹp như những dải lụa mềm trải dưới bước đi nhân thế, hào sảng thi ca, triết học, tôi còn đang ngụp lặn trong cơn lũ thì nàng gọi tôi, ông vừa nói ra những lời thành thật, nàng nói, nhưng những sự việc cứ như chẳng ăn nhập vào đâu chẳng có lý lẽ nào cả bỡi đó là giấc mơ, tôi nói, em biết, nàng nói,

11.

cũng có thể chốn sinh thành của tổ tiên tôi là ở mái Ngườm, hay núi Đọ, hay Sa Huỳnh, hay Óc Eo, bỡi vì cho đến giờ các nhà khoa học chưa nói điều gì chắc chắn về cái nôi của loài người, nhưng có một điều, không còn bàn cãi, máu đang chảy trong tôi là máu của tổ tiên hommo sapien của tôi, tôi bị dẫn dắt bỡi sự phức tạp khôn lường của thời đại, vào một ngày lại thấy mình thức dậy giữa non nước ngàn trùng, tiếng gà Óc Eo đang gáy rộ, Vyadhapura, hay kinh đô của người thợ săn, hay Kurung Bram, vua núi, không dễ phai mờ, khởi từ Hòn Đất, hay từ Takeo, một giọt cũng trùng dương, tiếng gà cửa sông bỗng tắt…những khúc Phù Nam máu lệ, một ngày nào, tôi đã đọc trong sử sách nào, đâu còn nhớ, nhưng sử sách cũng chỉ là những ký ức [không mấy thiệt] của người chép sử, từ cửa sông tiếng gà bỗng tắt, nơi bờ vịnh phía tây, Mang Khảm (Mang Krom), Trúc Phiên Thành một thời của họ Nguyễn, từ phía sau lưng Thất Sơn kỳ vĩ, tôi lần dò về thuở sáng chói của một miền đất, Kottinagar (thành phố cường thịnh) như đang ở trước mắt tôi, nếu quả đó là cố đô một thời của một cuộc trùng tu mặt đất, một cuộc Phù Nam, hay là ông muốn nhìn lại âm vang của những mảnh trần gian đã bị chôn vùi từ lâu, đón hỏi tôi là một người con gái bước lên từ con kênh Ba Thê vừa rủ sạch nước bám nơi áo quần, con kênh đang buổi nước ròng, đám lục bình dập dềnh trên dòng sông ngầu đục, trí tuệ mách bảo tôi rằng đang xảy ra một cuộc hội ngộ ngoại lệ, nhưng có phải là em đang muốn trở lại chốn xưa, thay vì trả lời nàng, tôi lại hỏi nàng, em lang thang khắp chốn từ hôm vương triều kaundinya không còn nữa, nàng nói, nghe kỹ thì thấy giống giọng nói của những người sống trên các hòn đảo ở biển Yên, Pacific Ocean, thuộc ngữ hệ Nam Đảo sao, tôi nghĩ, và bắt đầu cảm thấy bị quyến rủ bỡi vẻ đẹp không tả nổi, một triều đại cũng giống một áng mây bay, tôi nói, nhưng đã bao giờ ông nhìn thấy một vật như thế này chưa, nàng nói, có vẻ như cố giấu nỗi buồn phiền, và lấy từ ngực áo ra một viên ngọc nhỏ đưa cho tôi, tượng thần Vishnu, cha em dạy em cách tạc tượng trên ngọc quí, và cho đến lúc không còn vương triều kaundinya   nữa thần Vishnu vẫn chưa ban cho em tình yêu em hằng mong đợi [sao lại có sự trùng hợp vậy nhỉ, niềm hy vọng của người con gái tắt cùng lúc với nền văn minh Phù Nam tắt] tự dưng tôi cứ thấy bị ám ảnh bỡi một thứ quá khứ tôi từng yêu quí, bao nhiêu hình ảnh thuộc về một nền văn minh có thể đã bị chôn vùi vì dã tâm của đám vua chúa các nước lớn hay vì những tai biến của đất đai sông núi hay vì sự hoang hóa khắc nghiệt vốn là tính chất của một miền sông nước sình lầy châu thổ của con sông lớn đổ về tự những cao nguyên xa xôi phương bắc, những hình ảnh về một miền đất đã bị chôn vùi trong đất cứ nhảy múa trong đầu tôi, thứ thành phố cổ đại với những ngôi nhà chữ nhật với đường sá dọc ngang, thương cảng trong đất liền, hàng hóa, lúa gạo, thợ đóng tàu, thợ dệt vải, thợ hoàn kim, nặn gốm, luyện ngọc…nhưng em có còn nhớ những chuyến hải hành sang tận các miền sông Nil sông Tigre của tổ tiên em hay không, tôi buột hỏi, có, những con thuyền bằng gỗ giăng buồm trên biển cả, còn em thì hát những bài hát về những con sông có đám lục bình trôi, nàng nói, và tôi lại bị quyến rủ bỡi thứ vẻ đẹp không tả nổi, mắt nàng sáng màu ngọc, và ngực nàng căng đầy vẻ bí ẩn của một nền văn minh chưa thể hiểu hết, đêm ấy tôi và nàng ôm nhau nhảy múa suốt đêm dưới chân núi Ba Thê, và nhắc lại những gì sử sách đã nói về một nền văn minh còn nhiều bí ấn [dẫu biết sử văn đầy tính hư cấu]

Sách Phù Nam Thổ Tục của   sứ thần vua Ngô (Tam Quốc) là Khang Thái viết:

Vương quốc Phù Nam bề ngang rộng 399 lý, có nhiều đô thị, có tường cao bao quanh và bên trong có nhà ở… Nước da người dân màu đen, tóc quăn, xấu xí…Đàn ông đóng khố, đàn bà mặc chăn tròng từ cổ tới chân, xỏ lỗ tai để đeo bông tòn ten.

Nếp sống tuy rất đơn giản nhưng họ không trộm cắp. Họ làm nghề nông theo lối cổ, gieo trồng một lần gặt hái luôn trong 3 năm. Họ thích điêu khắc và dùng đục chạm trổ rất khéo, nhiều món đồ dùng để ăn cơm như chén đĩa đều làm bằng bạc. Dân chúng đóng thuế bằng vàng bạc, trân châu và dầu thơm…Họ biết đọc sách và có văn khố. Văn tự của họ giống như nét chữ của dân Hồ, một sắc dân ở Trung Á dùng Ấn tự…Cảnh vật trong xứ rất đẹp… 

Sách Nam Tề viết:

Người Phù Nam thường buôn vàng bạc, tơ lụa. Con cái nhà quý tộc thường mặc xà rông bằng lụa the. Đàn bà thì mặc một thứ áo vải luồn qua đầu. Người nghèo thì quấn một mảnh vải thô quanh mình. Họ đúc nhẫn và vòng đeo tay bằng vàng, làm bát đĩa bằng ngọc. Họ đốn cây lấy gỗ làm nhà và rào vườn tược chung quanh nhà. Nhà vua ở trong một nhà lầu có tầng gác. Dọc bờ biển, người ta trồng cây thốt nốt lá dài dùng để lợp nhà. Người ta đóng những chiếc thuyền dài tám, chín trượng (tức hơn 20m), rộng sáu, bảy phần mười trượng. Mũi thuyền và lái thuyền giống như đầu và đuôi cá. Nhà vua ngự trên mình voi. Đàn bà có thể cưỡi voi đi. Họ thích chơi chọi gà. Họ không có nhà tù. Khi có kiện cáo, tranh chấp, họ vứt nhẫn vàng hoặc trứng vào nước sôi. Ai dúng tay lấy ra mà không bị bỏng thì người ấy được kiện. Hoặc người ta bắt cầm ở tay một chiếc xích nung đỏ rồi đi bảy bước. Ai có tội thì bàn tay bị cháy bỏng, người vô tội thì chẳng có việc gì….

Dưới đời vua Kaunđinya   Jagavarman, phong tục của đất nước này là tôn thờ thần Mahaxvara. Thần luôn xuống ngự trên đỉnh Mộtan.

tôi nhìn thấy ngoài thương cảng Óc Eo thuyền bè tấp nập, từ đảo Sumatra, Java đến, từ Tây Trúc sang, cảnh người nhộn nhịp trên bến dưới thuyền, nhưng thoắt cái, mấy nghìn năm lướt qua mắt tôi, nơi trao đổi những vẻ đẹp của con người trên mặt đất sao chỉ còn mỗi tiếng gà, hơn nghìn năm qua em vẫn nương theo sử sách để giữ mỗi tiếng gà, nàng nói, vong quốc là thứ khái niệm chẳng ai còn muốn nghe thấy trong cuộc tiến hóa, nhưng lại là một thực thể, một thứ tai ương, luôn tồn tại trong lịch sử con người, tôi nói, em biết, nhưng chẳng phải vẫn còn một mảnh Phù Nam là em thơ thẩn giữa bão táp lịch sử đó sao, nàng nói,

12.

hay nàng là một mảnh vỡ khác tôi nhìn thấy vào một ngày ngang qua dấu tích một cuộc suy vong khác, vào một ngày không mấy bình yên, cùng lúc tôi nhìn thấy em và nhìn thấy hình dạng của niềm kinh khiếp đang phủ lên mặt đất, những bóng đen to lớn đang phủ lên cuộc sống, bọn họ đang bước, hình như cố nói thật to cho mọi người nghe thấy, ta sẽ làm lại tháp baben, cả thế giới này phải nói tiếng nói của ta, phải nói theo cách nói của ta, một người trong bọn họ nói, và hãy đốt hết những thứ ta không thích, và dựng một trường thành lên trên mặt đất để ngăn cách ta với những gì ta không muốn nhìn thấy, một người khác trong bọn họ ra lệnh cho thuộc hạ của mình, bọn họ đang bước, những bóng người ngã lên những bước đi của con người, có vẻ thô kệch, nặng nề, bất nhất, như thể đang thuộc về thứ phong cách tiền homo sapien, những cái bóng quyện lấy những bước đi, có vẻ cố kết một cách lầm than, dữ dội, như thể con người là nỗi ám ảnh to lớn của những hình thể không thể [nỗi ám ảnh mang đầy âm vang man rợ] một chặp, sao tôi nhìn thấy chỉ còn có hai người nhỉ, bọn họ bỗng chỉ còn lại hai người, chúng ta là bằng hữu tốt với nhau kể từ hôm nay, một người trong bọn họ nói, một gương mặt hỏa diệm sơn [đang vào thời kỳ cuối của phun trào] lửa nơi quầng mắt, lửa nơi khóe miệng, chỉ là do nhuộm lửa hỏa diệm sơn sắp tắt, nhưng lại khiến cho người ta có cảm tưởng rằng miệng và mắt đang được tô son đánh phấn [kiểu của những diễn viên sân khấu] và một tiến trình làm cho xứ sở trở nên hùng cường để dẫn dắt thế giới sẽ được đem ra bàn thảo giữa hai chúng ta, người thứ hai trong bọn họ nói, một gương mặt như thể sao lưu từ một cỗ tiệc đầu người, miệng dính đầy não tủy, có vẻ đã rất no máu, nhưng mắt vẫn còn dán chặt nơi chiếc đầu lâu đã cạn hết mọi thứ [cũng chỉ là tưởng tượng] nếu dám chống lại ta thì xứ sở của lũ các người sẽ trở thành sa mạc, người có gương mặt như sao lưu từ cỗ tiệc đầu người bỗng nhảy lên, hét, vừa la hét, vừa chạy khắp khu nghỉ dưỡng gòm những lâu đài   sang trọng được xây dựng ở bên trên mặt đất đã được trải thảm bằng loại cỏ xanh mượt, đồ chó, lại là quân cướp nước, tôi lại nghe có tiếng ai đó thét lên, và một người đàn ông đội mũ vải nồi màu trắng [một đầu bếp thì phải] đến nói vào tai người có gương mặt hỏa diệm sơn điều gì đó, bắn, lập tức người đàn ông có gương mặt hỏa diệm sơn ra lệnh thuộc hạ xả súng vào một xứ sở nào đó cho vui trước khi đi ăn trưa với người bằng hữu, tôi nghe có tiếng đàn hát ở đâu đó, âm nhạc phục vụ cho bữa ăn trưa của hai con người quyền thế, nhưng không phải, một vũ khúc của một cuộc suy vong, em, xưa nay vương quyền và nhan sắc giai nhân luôn là mối xung khắc, đêm mùa hạ nghe tiếng vạc kêu sương, giấc mơ thiếu nữ, thi ca của vạt nắng buổi sớm mai hồng, thi ca của ngọn gió giữa ngày thổi ngang qua niềm vui thầm kín, vẻ đẹp, tôi biết em chắc chiu suốt một thời, bỗng tan biến, em đi làm vũ nữ của vua, người tình của em đi làm lính cho vua, nước mắt làm ướt hết các cổ thư, xưa nay các bậc quân vương vẫn là kẻ vui đùa trên trinh tiết mỹ nhân, tôi thấy người tình của em bước ra từ mảng tường còn sót lại nơi kinh thành Vijaja đổ nát đứng nhìn hình dáng của niềm kinh khiếp đang phủ lên mặt đất, tôi biết em không có lỗi, người tình của em không có lỗi, người Hóa Châu không có lỗi, người ở bên kia đất Hóa Châu nghe tiếng gà Hóa Châu gáy thì vui, và ngược lại, xưa nay các thứ vương quyền luôn va chạm nhau, có khi hòa hoãn, có khi quyết liệt, tiếng gà Hóa Châu không còn là niềm vui chung của những người ở bên này và ở bên kia đất Hóa Châu, lửa chiến đốt cháy kinh thành Vijaja, em lại đi làm vũ nữ cho ông vua thắng cuộc, những người lính, những người tình, những người mất tổ quốc đứng nhìn hình dáng của niềm kinh khiếp đang phủ lên đất nước, một lũ bạo tàn, bọn họ than thở, một ngày không mấy bình yên tôi nhìn thấy bọn họ bước ra từ bức phù điêu trên mảnh tường thành còn sót lại nơi kinh thành Vijaja đổ nát, nàng hát, và những người còn lại thì múa, một vũ khúc của suy vong, cờ xí còn bay rợp kinh thành, cờ xí của kẻ thắng cuộc, khói sương phủ một góc nhân gian, em, các thứ vương quyền làm nhàu nát giấc mơ thiếu nữ, làm tắt mất tiếng gà Hóa Châu, nhưng không sao, hình ảnh em cùng với tiếng gà luôn là thứ thi ca vĩ đại nhất trong những thi ca con người làm được, tôi nói với người con gái như có rất nhiều vết xước nơi ánh mắt, kìa, bọn họ lại kéo đến nữa kìa, nàng bỗng kêu, vẻ hốt hoảng, nàng nói với tôi rằng nàng đã nhìn thấy một bọn người mang đầy súng đạn đang tiến về phía kinh thành Vijaja đổ nát, em lại phải đi làm vũ nữ cho đám vua chúa đời nay, nàng cầm tay tôi, khóc, đừng sợ, những người đời nay sẽ mang thơ đến cứu em, tôi nói,

13.

tôi chỉ hơi ngờ ngợ là đã gặp nàng ở đâu đó, thì chẳng phải trong cuộc sống thường có những kẻ ở những phương trời khác nhau nhưng lại có khuôn mặt giống nhau đó sao, nhưng nàng thì làm như thể tôi và nàng đã có bao nhiêu là kỷ niệm, vừa thẳm sâu, vừa bi tráng, vừa có vẻ như những sự tích kỳ vĩ

con chim lạc cất cánh bay lên khỏi đầm lầy, lạnh, và mơ hồ, lãng đãng, sương gió lãng đãng, những ý tưởng lãng đãng, những ý tưởng về sự hiện diện, mặt đất và bầu trời, những ngôn ngữ của cây lá, và của những sinh linh biết nghĩ ngợi
nàng nói như thể là lời tâm tình của tạo tác

còn tôi thì như đang lạc vào giấc mơ

con chim lạc cất cánh bay lên khỏi đầm lầy, có tiếng nhạc ngựa ở đâu đó vọng lại, mặt trời vẫn soi rọi một cách quyến rủ làm cạn kiệt những dự định, những ước mơ, người kỵ sĩ trẻ tuổi bỗng xuất hiện giữa những cơn mưa của những hữu thể vô định, em đã chờ anh rất lâu, người con gái của dáng vẻ vô biên nói, đỡ người kỵ sĩ trẻ tuổi xuống ngựa, lau khô những vết máu cho chàng…

nàng kể như thể những lời của buổi sáng buổi hồng hoang

nhưng thương tích nó là hình dạng, vẻ đẹp không thể thiếu được của tồn tại, là bản thể của sự thật, và của sự giả trá

nàng nói như thể những mô tả tỉ mỉ về tạo tác
có rất nhiều lũ rắn bám theo người kỵ sĩ trẻ tuổi, những con rắn, hình thể của những hiện diện đen tối, và của những vắng mặt đen tối, những con rắn, định mệnh của vĩnh cửu, định mệnh của hôm nay và của mãi mãi về sau

nàng nói như thể những định nghĩa tỉ mỉ về tạo tác

còn tôi thì bắt đầu cảm thấy vừa vui và vừa sợ hãi

con chim lạc cất cánh   bay lên khỏi đầm lầy, rừng cây nguyên thủy   bắt đầu chuyển động trước một gương mặt mới của thời gian, một cuộc tình đã khởi lên giữa uyên nguyên, ngày ấy anh đã đến với em như giấc mơ giữa chừng, nàng nói, cầm tay tôi, rưng rưng nước mắt, không biết tình cảm có đánh lừa tôi hay không, tôi cũng cảm thấy rưng rưng muốn khóc, tôi nói với nàng là tôi cũng biết có một cuộc tình đã khởi lên giữa uyên nguyên, một cuộc tình nghìn năm, tôi nói, và cầm lấy bàn tay nhỏ bé của nàng, đêm hôm ấy chúng tôi ngủ lại ở bờ con suối chảy qua rừng cây nguyên thủy, nàng nằm xuống cạnh tôi, và thiếp đi một cách ngon lành như thể chưa hề biết ngủ là gì, vào khoảng nửa khuya tôi thử choàng tay qua ngực nàng, thì thấy khỏa lên mùi trần thế, rồi tôi cũng thiếp đi, chúng tôi thức dậy vào lúc tờ mờ sáng, dường như có dáng người cao lớn thấp thoáng ở phía đầu kia rừng cây nguyên thủy, thế giới là cuộc tan hợp khôn lường, giờ thì em phải đi vì tạo tác đã lên tiếng gọi, nàng nói, và bước mau vào rừng cây nguyên thủy, tôi bắt đầu rơi vào tình cảnh của một người không còn trọng lượng, nàng khuất dạng đã rất lâu, rất lâu, nhưng tôi thì vẫn chưa thể trở lại với cuộc sống hiện thực,

14.

nàng đi rồi tôi lang thang tận thời trung cổ, các vua Trần của đất nước tôi đã giữ ngôi hơn một trăm năm, ông vua đương thời ít học nhưng thích đem sách của ông tổ họ Trần của mình ra giảng, sách Khóa Hư Lục của Trần Thái Tông, cho tới lúc này triết học của tổ phụ ta là vô địch thiên hạ, vua thích nhất là nói ra câu này mỗi khi đứng trước thần dân của mình, ở làng Ma La xuất hiện nhân tài, mẹ tên Đỗ còn cha là thần làng Ma La, tôi nhận làm người trợ giúp ông Ô không phải vì lai lịch có vẻ thần thánh của ông, mà vì muốn thứ âm nhạc kỳ lạ của ông đến với nhiều người, ta muốn anh cùng đi với ta, ông Ô chỉ nói với tôi ngắn gọn thế, nhưng đấy là cái duyên, tôi bắt đầu làm công việc tổ chức các buổi trình diễn [nhận lời mời của các địa phương, lo việc di chuyển] sao cho âm nhạc của ông Ô đến với mọi người mọi nơi, đi, và đàn địch, chúng tôi bắt đầu một cuộc ngang dọc đầy khí phách, Tiếng Vạc, tác phẩm đầu tiên của ông Ô như một đột phá văn hóa trong một xứ sở mà người đứng đầu là vua đương thời chỉ thích các thú vui vật chất, xây thêm dinh thự, tắm sông, uống rượu [về sau, không biết sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nói có thiệt không, ở mục “bản kỷ 7, 10a” chép rằng nhà vua đương thời đi chơi thuyền trên hồ súyt bị chết đuối, được thầy thuốc họ Trâu chữa bằng châm cứu, khỏi chết, nhưng bị chứng liệt dương] Tiếng Vạc, một thứ âm nhạc như được trang bị những cánh trắng khổng lồ, bắt đầu bằng những ngôn từ thô sơ của nguyên mẫu, có vẻ như không có gì có thể hiểu được, những âm thanh lăn ra và trôi đi, và dao động, một thứ âm thanh bị gián đoạn như thể đang chờ đợi gì đó, những hạt âm thanh cứ như đang kết tập lại trong sự chồng chéo nhau, quyện vào nhau, cuối cùng là sự bùng nổ trong một đại dương sâu thẳm, ông Ô viết nhạc cho mỗi thứ độc tấu đàn một dây [về sau được gọi là độc huyền cầm] rồi Tiếng Vạc, những gào thét bằng âm thanh, bỗng được ai đó diễn dịch thành lời, bất ngờ ca khúc cất lên…lũ vạc ăn đêm thả những lời oán trách về việc có quá nhiều thứ đè nặng trên đầu dân một nước lẽ ra phải được sống đường hoàng như con cháu các bậc tổ tiên oanh liệt, cả nước cùng ca hát với ông Ô, chúng tôi làm một cuộc triệt phá những ảm đạm của một thời, những bậc cao minh, thông thái trong xứ sở đã viết rất nhiều về âm nhạc của ông Ô,

hãy lắng nghe nó, thứ âm nhạc như   một cuộc đi bộ với một con rồng lửa đang thở, âm nhạc đó như   hàm chứa thứ hệ thống thời tiết hỗn loạn, không dự đoán được, và lắng nghe, như đang giữa cơn giông, hay ngang qua một trận bão tuyết, đôi khi nguy hiểm, nhưng không thể nào tránh đi theo cách bị thuyết phục

 

một thứ âm nhạc bước thẳng vào im lặng, để cạnh tranh với cái không biết, với cái không thể biết, cuối cùng là chìm vào vô hạn, nó là sự mỏng manh của thế giới, và của nỗi sợ hãi, nhưng là vẻ đẹp vĩnh cửu

 

âm nhạc này tồn tại trong một thế giới mơ hồ chỉ trên mép âm thanh, chống lại sự im lặng xen kẽ với những xáo trộn và run rẩy bất thường là những dòng thơ trữ tình tràn ngập nồng nàn, tràn ngập tối tăm

 

và giới hạn của thứ nhạc cụ có vẻ lạ lùng ấy là gì, một thứ nhạc cụ mà ai đó sẽ chơi trên đó, để tất cả tồn tại khi nghe một người chơi đàn một dây nói rằng Tiếng Vạc là duy nhất, và ranh giới của âm nhạc ấy là gì, một thứ âm nhạc như bị cắt đứt từ phần còn lại của lịch sử âm nhạc bởi một biển của sự khác biệt để chu vi của một mảnh không bao giờ ảnh hưởng đến bờ biển của người khác, đấy là thứ âm nhạc đã giải quyết được chủ nghĩa lịch sử   trong mỗi nốt nhạc của

 

chính thứ âm nhạc dường như luôn làm cho bộ nhớ trở thành chủ đề của nó, gợi lên những ký ức hoặc những hồi tưởng vô thức, với tất cả những kịch bản trong bóng tối, sự thay thế và mất mát, thứ âm nhạc, nơi mà câu chuyện không chỉ là hiện tại như một cái gì đó bên ngoài chúng ta, như một cái gì đó có thể được quan sát hoặc đối xử như một vật thể, mà còn là trong chính chúng ta, liên tục sống với chúng ta, và cũng được hiểu theo nghĩa hiện tại  

nhưng ông vua đương thời với tính cách là coi những thành thật của thần dân mình [âm nhạc là một trong những thành thật nhất của con người] như những âm mưu phản loạn, có nghĩa, chúng tôi không còn được ca hát, ông Ô như một bậc tiền bối tôi vô cùng kính trọng, và ông xem tôi như người bạn hiểu ông nhất, ta muốn thôi chuyện ăn uống để chấm dứt cuộc đời mình, nhưng bọn lính canh ngục bắt ta phải ăn, ngay nửa ngọn cỏ của vua ta cũng không còn muốn đụng tới nữa là chén cơm vua, ông Ô nói với tôi khi tôi đến thăm ông nơi giam giữ những kẻ phạm tội, ở bên Khu mật viện người ta nói ông Ô làm ra thứ âm nhạc kích động thần dân chống lại vua là tội đại nghịch bị xử phạt với hai mực, một là chết tan xương nát thịt [trước, tội đại nghịch bị treo cổ, chém đầu, hoặc bị lăng trì, nay thêm bị tan xương nát thịt] và hai là sau khi chết ông Ô bị đày ra một hòn đảo ở ngoài biển Yên, pacific ocean, như thế là người ta phải bỏ ông Ô vào cối giã để giả, tôi dùng vàng bạc lo lót bọn lính triều đi đày ông Ô để được ra đảo lo việc chôn cất mớ thịt xương tan nát của ông, ở hòn đảo ấy chỉ thấy có cỏ với trời mây và nước, tôi chôn ông Ô ở ghềnh đá phía đông hòn đảo, người hãy nằm đây nhìn mặt trời lên và nghe sóng vỗ, tôi khóc nói với người tôi yêu kính [cũng không biết có phải về sau ở trong sách Lĩnh Nam Chích Quái người ta đã gọi ông Ô là Hà Ô Lôi, và cũng không rõ vì sao người ta lại chép ông Ô như để ám chỉ một nhân vật lịch sử nào đó, mà không chép về tài năng âm nhạc xuất chúng của

một người như thể có một ngôn ngữ riêng để tự giải phóng khỏi thứ sức nặng của thế giới, một con người như thể một phần của vũ trụ, như là trung gian giữa con người và các vị thần] rồi tôi lên đường đi Phi Châu để mang thứ cỏ nơi đồng cỏ tồn tại tự thời xảy ra vết nứt Đông Phi [tôi cho là xanh tốt nhất trên mặt đất] về thay cho cỏ trên hòn đảo, tôi muốn ông Ô vui khi ước nguyện của ông lúc còn trong tù đã thành sự thực, vì dù muốn dù không, trên danh nghĩa, cỏ trên hòn đảo vẫn là cỏ của vua,

 

 

15.

tôi lại đi tìm nàng, trưa, tôi nằm ngủ dưới chân núi Voi Nằm, trong mơ tôi thấy mình đã lọt vào một tửu điếm giữa miền rơm ra

 

 

16.

rồi nàng lại gặp nạn vào lúc con tàu Philae đã chạm lên bề mặt một sao chổi và đang lao đi trong không gian, sao chổi Churyumo Gerasimenko, một khối cầu đá, băng, và bụi, lần đầu tiên con người đã chạm vào tàn tích thời sơ khai hệ mặt trời, chấm dứt một biểu tượng về điềm xui xẻo kéo dài hằng nghìn năm trong đầu óc con người nơi mặt đất, nhưng các nhà khoa học, chủ nhân cuộc khám phá lừng lẫy, không ngờ một điềm xui xẻo khác lại đang diễn ra,

vào lúc nửa đêm, từ nơi ấy, em gọi cho tôi, rằng ở nơi ấy, những kẻ ngông cuồng của thế kỷ đang hẹn hò nhau, cuộc hẹn hò có vẻ qui mô toàn thế giới, nhằm tấn công vào loài người, bọn họ vũ trang bằng một thế giới quan kỳ dị và súng, tuyển mộ những kẻ đang mang trong lòng niềm thù hận đồng loại, và sát hại những kẻ đang yêu, em phải trốn đi ngay vào lúc này, tôi đang vui với thành tựu khoa học to lớn của con người, cuộc gọi của em làm tôi bàng hoàng quá sức, chỉ nói được một câu chẳng đầu đuôi thể thống gì cả : hãy trốn đi ngay, em,

một cuộc tẩu thoát vào lúc nửa đêm,

đối với các vật thể khác, những hành tinh khác, những hạt bụi khác, ở xa trái đất, chúng ta gọi là những vì sao, và ngược lại, những nơi ấy, có lẽ là ở những nơi ấy, cũng gọi chúng ta là vì sao, chỉ có điều, có lẽ chắc chắn là thế, là những nơi ấy không hề hay biết đây là một vì sao có cả những câu chuyện vẻ vang, lẫn những câu chuyện ọp ẹp có thể trong chớp mắt làm tiêu tan hằng loạt con người, em, tai họa thế kỷ đã xảy ra, thân gái dặm trường, tôi biết sau cuộc gọi vội vã, em đã ra đi, cứ đứng lên vai tôi mà bước giữa bất trắc, tôi nói với em qua bầu trời đêm buồn bã,

tình yêu là thứ vật thể không dễ nói thành lời, đôi khi chỉ là mỗi thoáng hiện giữa đất trời, tôi nhìn thấy áo em bay một sáng mùa thu, mà cũng chỉ là nhìn thấy trong tưởng tượng thôi, sự khắc họa vào niềm xao động của nghĩ ngợi đôi khi lại giống với những lắng đọng của con suối trên rừng, không nói gì cả, nhưng lại làm vang động nghìn năm,

em, tình yêu của chúng ta lại diễn ra vào cái thế kỷ kỳ cục, ai đời con người lại hẹn hò nhau đi sát hại đồng loại, tôi nói với em qua bầu trời đêm buồn bã,

hết thảy đều hình thành lên từ những hạt bụi, cả mặt trời mặt trăng, cả những vì sao. cả tôi và em, tôi vẫn muốn em vẫn gọi tôi là hạt bụi, hạt bụi vẫn   đang nằm dưới chân núi Voi Nằm để nghĩ ngợi về cuộc tẩu thoát của em. em, hãy chạy theo những con đường nắng mùa xuân khỏa vào trang nhật ký tôi treo ở hiên nhà em đọc trong niềm say mê của loài chim di trú, thảng thốt một niềm vui bất tận, em hãy chạy theo những con đường nỗi nhớ nghiêng lên những buổi chiều hôm lãng đãng cơn gió lạc loài, thế giới là một cuộc lạc loài, em hãy chạy theo những con đường tiếng sấm mùa xuân đánh động một cuộc tình để bắt đầu cho một thế giới có vẻ duy chỉ có tôi và em, sự ích kỷ làm dấy lên một triết học về sự rung động thuộc qui luật tồn tại của loài giống, tôi nói với em qua bầu trời đêm, nói thật nhiều, em hãy chạy cho thật xa cái thế kỷ kỳ cục,

một cuộc tẩu thoát vào lúc nửa đêm,

là tôi đang nằm dưới chân núi Voi Năm để nghĩ về cuộc tẩu thoát của em, tôi vừa chìm vào những tưởng tượng về con tàu Philae lướt đi trên chốn hoang sơ Churyumov Gerasimenko, như để cho bớt căng thẳng trong nghĩ ngợi, thì nghe em gọi : thành phố đã bị bao vây, súng nổ, người chết, bọn họ đã đem em giam trong một ngôi nhà mái vách và cửa ngõ đều bằng đá, hết, tôi thả ống nghe xuống bàn, và lặng đi, cứ thấy như đang tắt lịm một vầng trăng,

17

lại đến lượt tôi [giống như nàng] tôi cũng gặp nạn, em biết không, người đàn ông ấy đã thét vào tai tôi, đây là thời của loài cây không hoa, nhà ngươi biết chưa, người đàn ông ấy đã thét rất to vào tai tôi, cuối cùng tôi cũng đã ra khỏi giấc mơ kéo dài bao nhiêu niên kỷ, sự sống quả tình đã trải qua các thời cây hạt trần [kỷ Triat, đại Trung sinh, 248 triệu năm trước] thời cây hạt kín [kỷ Creta, đại Trung sinh, 144 triệu năm trước] và giờ đây là thời cây không hạt [ôi, lạ lắm] thông báo cho tôi biết hình thù thời tôi đang sống, người đàn ông ấy đã biến mất vào đám người trên quảng trường thành phố, người ta đang đua thuyền và xem đua thuyền, cuộc chen chúc trong bầu không khí vui, đen tối, hài hước, phẩn nộ, bi thương, là bọn người ấy đã đem ra thử thứ công nghệ hiện đại nhất để lòe thế giới chăng, lời bình luận có tính cách ám chỉ và phê phán của một nhà theo dõi cuộc đua khiến tôi chú ý, có đến năm bảy nhà theo dõi cuộc đua, những lời bình chồng chéo   nhau tạo nên thứ hình thù của những trận mưa thiên thạch [thời tai họa của mặt đất gây bỡi những cuộc va chạm của các hành tinh trong vũ trụ] phải lắng nghe kỹ mới lọc ra được nội dung của mỗi lời bình, hãy chấm dứt ngay những mưu toan làm tổn thương đương đại, đả đảo lũ nhà chính trị ba hoa lừa mị hiếu sát [lũ nhà chính trị ba hoa lừa mị hiếu sát là lũ người nào vậy nhỉ] em biết không,   đám đông trên quảng trường bắt đầu hô to những câu khẩu hiệu có lẽ là tôi mới nghe được lần đầu, cỏ hoa lặng lẽ đi về phía sa mạc, thảo nguyên trắng những ngôn ngữ của đất [thơ của ai vậy nhỉ] một lời bình bắt đầu bằng thơ: “ …phô trương giữa cái nắng tháng sáu là nền văn hóa của những xứ sở đang tiến về phía đêm trường tiền sử, phía của ma quỉ… thứ văn hóa súc vật”, tôi ngớ ra, thì ra chẳng có cuộc đua thuyền nào ở đây, chỉ là đám người hiếu chiến muốn phô trương sức mạnh của đất nước mình, võ khí và sức mạnh của đất nước, tôi cứ nghĩ đến những xứ sở nhựơc tiểu đang chết dần mòn ở   đâu đó, nhưng những tiếng vỗ tay la ó ở một góc quảng trường thành phố chẳng phải là để cổ vũ cho bất cứ một chiến thắng nào, chỉ là không thể không bày tỏ thái độ bằng vỗ tay và la ó trước một hiện thực không thể khóc mà cũng không thể cười, cái cách biến hóa ở đây khiến tôi phải nghĩ ngợi rất nhiều, người đàn ông vừa thoát ra từ một con bò tóc thì rậm mắt ngã màu mơ màng và trán thấp đang cúi chào mọi người, tiếng vỗ tay la ó của người xem lại vang lên, dậy đất dậy trời [làm sao một con người lại có thể chui ra từ một cái đầu bò nhỉ] người đàn ông vừa thoát ra từ cái đầu bò lại ăn vận theo kiểu một vị hoàng đế thời thế giới còn theo đế chế, hỡi các thần dân yêu mến, ta chỉ vì muôn dân nên phải ngồi ở một nơi như thế này, vừa ngồi vào chiếc ghế có chạm trổ hình đầu bò đủ loại [các giống bò ở các châu lục] người đàn ông ăn vận kiểu vua bắt đầu nói ra những lời lẽ lớn lao, hình như là ông đang rươm rướm nước mắt [những giọt nước mắt của vua] lập tức một đám người có vẻ rất thông thái, tất cả đều mặc lễ phục, đến quì dưới chân ông, và một con vượn người [hay là một con người mang lốt vượn người nhỉ] bước ra chào mọi người và nói lớn: đây là xiếc phố, tôi cảm thấy vô cùng hào hứng, nhưng bỗng có ai hô to: người ngoài hành tinh, mọi người đều dán mắt lên bầu trời trên đầu, em biết không,   một thứ vật thể màu đen đang tiến về phía quảng trường thành phố, lại thấy có mấy người mặc kiểu áo choàng dành cho những nhà thám hiểm không gian, tất cả bọn họ đểu dang hai tay ra như để đỡ lấy thứ gì đó, trí tuệ mách bảo tôi khiến tôi vô cùng cảm động rằng đấy là những nhà khoa học đương đại đang cố tìm cách ngăn chận mảnh thiên thạch đang tiến về phía mặt đất [nếu thứ vật thể màu đen hiện diện trên bầu trời quả là mảnh thiên thạch] nhưng đã nghe thấy tiếng động cơ quen thuộc phát ra từ thứ vật thể màu đen, một chiếc máy bay lên thẳng đáp xuống quảng trường thành phố, và thoáng cái, đã mang hết đám người xiếc phố lên trời, là người của thượng giới đấy, nhà ngươi rõ chưa, và ta cấm tiệt không được nói đi nói lại bất cứ thứ gì nhà ngươi nhìn thấy, em biết không, người đàn ông đã thét vào tai tôi lúc nãy lại thét vào tai tôi, cuối cùng tôi cũng đã quen với hình thù thời tôi đang sống,

18.

và ông lão đứng ở hiên hè che mắt nhìn thử mặt trời đã lên cao chưa chứ không phải để nhìn tôi và em, chẳng ai chủ ý chúng ta đâu, tôi nói, tôi và em đang bước đi trên những cổ tích, lũ chim én gồng gánh đến xây tổ ấm của mình bên tiếng sóng biển, những ông vua cùng tổ quốc gầm gừ nhau bên tiếng sóng biển, đám người lạ từ phía mặt trời lặn và phía mặt trời mọc rượt đuổi nhau bên tiếng sóng biển, và bệnh hủi đã làm cho thi ca của một nhà thơ trở nên những câu kinh hiển linh cất lên cùng tiếng sóng biển, những câu kinh làm cho trăng chảy máu, và làm ngưng lại tất cả những khổ đau của loài người, thành phố cổ tích nay có thêm em, có thêm cuộc tình của tôi và em, một phức thể của niềm vui, nỗi sợ hãi và chờ đợi, buổi sáng tháng sáu, nắng sớm mai sạch bong và tươi mát rải lên những ngọn xà cừ như lời an ủi mang tính chất siêu nhiên hơn là dành cho tôi và em, những kẻ ăn cơm mặc áo của thời đại muốn hòa vào cuộc sống thời đai nhưng luôn có kẻ muốn ngăn cản, tôi luôn có cảm tưởng có đám người hèn hạ ngông cuồng nào đó phục sẵn ở đâu đó để đánh gục tôi và em, những vết bùn lịch sử còn sót lại, hay sự phục sinh của tàn nhẫn, tôi không rõ, chỉ biết rằng những kẻ hèn hạ thì không bao giờ chịu nổi khi đứng trước những kẻ đang yêu nhau, buổi sáng tháng sáu sạch bong và tươi mát bao nhiêu năm qua như bàn tay của người mẹ hiền từ thỉnh thoảng lại đánh một cái thật mạnh vào nhận thức của tôi, mảnh đất mà con người bước đi trên đó có tôi và em, thành phố của tôi, đường phố có hàng cây xà cừ, ông lão ra hiên hè nhìn nắng lên, tôi lục lọi ký ức và nhìn thấy em buồn, chẳng ai chủ ý chúng ta đâu, tôi nói, buổi sáng tháng sáu có lũ sáo núi về đậu trên hàng cây xà cừ, có lẽ, để thay đổi cuộc sống một chút, lũ chim trên dãy núi phía tây thành phố đã xuống đậu ở đây, và bấy giờ, tôi biết có nỗi sợ hãi nào đó đang xâm nhập vào cuộc sống của em, nỗi sợ hãi nào, đã xảy ra điều gì ở ngôi biệt thự cổ kính của ca đoàn từng quyến rủ em, hay những bài ca trên ngọn núi ảo ảnh không còn thuyết phục được em, tôi không biết, nhưng rõ ràng là em đang thận trọng với những gì đang xảy ra chung quanh mình, tôi lục lọi ký ức và nhìn thấy em chăm chú nghe lũ sáo núi trò chuyện trên những ngọn xà cừ, quả tình cuộc sống của lũ chim cũng có quá nhiều điều để nói, em nói, vẻ không vui, và ở một đoạn phố có nhiều người ra đứng ở hiên hè một ngôi nhà hơi cũ kỹ tồi tàn, tất cả đều nhìn ra đường phố, có thể bọn họ đang đợi xe hay đợi ai đó, nhưng em thì có vẻ rất lo lắng, nếu không nói là sợ hãi, em cứ giả vờ vừa đi vừa ngước nhìn lên tàng cây xà cừ nơi lũ sáo núi đang trò chuyện, rồi kéo tay tôi, ý muốn mau qua khỏi những người đang nhìn ra đường phố, không sao đâu, chẳng ai chủ ý chúng ta đâu, tôi nói, vì biết rằng có bầu trời tháng sáu trong vắt ở trên đầu che chở tôi và em, bầu trời ấy, về sau, khi không còn có em ở thành phố của tôi, mỗi lần ngang qua con đường phố có lũ sáo núi trò chuyện trên hàng cây xà cừ, tôi lại thử ngước nhìn, và như không sao chịu nổi với thứ sự thật là tự dưng em biến khỏi cuộc đời tôi, ký ức của tôi như cái thư viện chứa toàn những cuốn sách khó đọc hay những cuốn sách chép những chuyện không vui, buổi sáng tháng sáu biển đã chặn tôi và em lại [cuối con đường phố có hàng cây xà cừ là biển] như để hỏi han về sự diễn biến của một cuộc tình, rất tốt đẹp, tôi nói với một con sóng đang ùa vào bờ, tôi và em là đang ngồi trước biển, có lẽ sự mạnh mẽ và rộng lớn của biển làm cho em không còn cảm thấy sợ hãi, em lại tựa lên vai tôi như để thêm sức cho những nghĩ ngợi nào đó, trong khi em lặng lẽ nhìn theo những con sóng biển chạy ra chạy vào bờ, tôi phác họa trong cảm hứng của mình một cuộc tình có vẻ hơi kỳ dị một chút, chủ ý của tôi là tạo ra một quả bom làm bằng thứ văn chương cao cả để làm tan xác đám người hèn hạ ngông cuồng của thế kỷ luôn muốn triệt hạ cuộc tình của tôi và em, cuộc tình hơi kỳ dị ấy là thế này: tôi và em đã lạc vào buổi hổn mang sau cuộc nổ lớn [đươntg đại] và bắt đầu một cuộc tìm kiếm khác, đâu ngờ thứ cảm hứng bất chợt ấy lại như thứ dấu hiệu báo trước cho một cuộc thất lạc tôi cho là lớn nhất thế kỷ.

19.

cuối cùng tôi đã lạc đến dòng sông ngả chảy lên trời ngả chảy qua những ngọn đồi trọc, còn đang phân vân nên lội qua ngả nào để đến nơi tôi muốn đến, thì nàng đã cập thuyền vào bờ nơi tôi đang đứng, ông vẫn đang đi tìm đồng điệu, cô gái nói, tôi hỏi làm sao lại biết là tôi đang đi tìm đồng điệu, thiếu nữ liền đưa tay cho tôi nắm,   hãy xuống thuyền rồi trò chuyện, như mang cả vẻ u tịch của một miền sông nước, lập tức tôi đọc thấy trong mắt thiếu nữ niềm u uẩn không dễ nhận biết, ngày ngày em vẫn qua lại trên con sông này và vẫn nghe ông hát, tôi ngạc nhiên vô cùng vì bấy lâu tôi vẫn hát trong trí nhớ của mình, nhưng làm sao em lại nhìn thấy được những gì ở trong lòng tôi, tôi nói trong niềm xúc động, hát trong trí nhớ lại là tiếng hát vang đi xa nhất, người con gái nói, tôi nói là liệu em có giúp tôi sang sông được không, em biết là ông đang muốn đến nơi   có kẻ đã đợi ông tự những trăm năm trước, cô gái nói khiến tôi thấy lo hơn là mừng, nếu là đưa đò trên sông thì cũng chỉ biết nơi lui tới của một số khách thân quen, đằng này, tôi là kẻ mới gặp lần đầu, tôi còn đang rất phân vân có nên để cho một người chưa hề quen biết giúp mình hay không thì cô gái đã lên tiếng, ông đừng lo, từ rất lâu, những khúc hát của ông đã khiến cho em thấy yêu con sông này hơn, nhưng là bấy lâu vẫn đưa đò trên con sông này, tôi bạo dạn hỏi, cô gái lắc đầu, xưa em là kỷ nữ của vua, người làm ra được thi ca thì đưa em hát, như đang có một thứ sắc màu huyễn hoặc choàng lên sông nước, tôi nghe thấy giữa   chốn cố đô diễm lệ tiếng trống điểm canh, sức thanh bình còn đang ấp ủ những giấc mơ như không hồi kết của con người, và ở nơi ngồi viết chiếu chỉ của vua, người con gái ấy thì hát, còn vua thì như đang ngoi ngớp giữa dòng thi ca của muôn thuở, nhưng tại vì đâu em không còn là ca kỷ, tôi buột hỏi khi nhìn thấy như đang có một vì vua đặt tay lên bờ vai người ca nữ, hát với ai bây giờ, các vì vua ngày nay ít có ai nghĩ đến chuyện thi ca, người chỉ vui   thú chiến tranh, đánh nhau để trục lợi, người chỉ nghĩ đến việc làm giàu, cho nên em phải đi đưa đò trên sông, cô gái nói, như sắp khóc, tôi cứ muốn làm như vì vua thuở ấy là đặt tay lên bờ vai thiếu nữ để nói, hỡi người đồng điệu, hãy về với tôi đi, tôi sẽ làm ra thi ca, và em thì hát, nhưng tôi chẳng dám hành động như mình nghĩ, giữa lúc tôi cảm thấy vô cùng lúng túng, quả tình, cho đến lúc ấy tôi cảm thấy có một tình yêu cao sang diễn ra ở trong lòng, tôi đã yêu cô gái ấy thật, giữa lúc tôi còn đang vô cùng lúng túng, chẳng biết phải nói gì thêm, cô gái bỗng nắm lấy bàn tay tôi đặt lên ngực mình, ông có nghe thấy không, những khúc hát của ông vẫn còn làm cho tim em xôn xao mực ấy, cô gái nói, rồi cho thuyền cập phía bờ bên kia, từ nơi đây có thể đến được nơi tôi muốn đến hay không, tôi đã lên bờ nhưng còn muốn hỏi lại cho chắc ăn, ông đi bất cứ đường nào cũng đến được nơi ông muốn đến, nàng nói, và cho thuyền rẽ về ngả lên trời,

20.

bụi, và sự chuyển động của thế giới,

những lời nàng tản mạn trong trời đất, những lời về người nàng thầm yêu, anh, buổi trưa em nghe tiếng anh cười vang, thấy anh trong thăm thẳm nỗi ngóng đợi, nhìn anh qua bầu trời tháng giêng có con chim lẻ đôi đang chao nghiêng nỗi nhớ… điều này chứng tỏ nàng cũng chưa hề gặp người nàng yêu, anh, đêm trôi đi trong nỗi cô độc, nỗi cô độc cứ làm em thấy sợ hãi…

bụi, và sự chuyển động của thế giới,

phương nam, những lời nàng về phương nam, hay là những nhắn gửi về một người, anh, lênh láng những dòng sông, sự dịch chuyển có vẻ vô tình, và tàn nhẫn, sự dịch chuyển theo nghĩ ngợi của những ghềnh đá hai bên bờ những dòng suối, theo nghĩ ngợi của đám sinh linh vô danh vẫn luôn ẩn kỹ bên dưới những lớp lá mục thời gian, theo nghĩ ngợi của niềm im lặng của hết thảy những vật thể không có ngôn ngữ, vẫn cứ trôi, đi, một tâm hồn buồn bã luôn nhìn thấy những trống trải dấu kín nơi dòng sông đang trôi, nơi những mảng lục bình dắt díu nhau về nơi chúng không hề biết,

tôi cũng yêu đất phương nam, như nàng, tiếng chim khua động cây trái trong vườn, nửa khuya thức giấc con lũ về, ướt hết những thế kỷ mơ ước, tôi cũng mơ ước như nàng, được bước đi trong những nối kết ngẫu nhiên, bước đi trong những vang động dội về từ buổi mới thức dậy của đất đai, những bài dân ca buồn bã đất phương nam sẽ dày vò tôi cho đến chết,

bụi, và những nối kết có thể, những công thức khó khăn về vũ trụ, linh cảm về một tiếng kêu của đá, của hoa, của những vị thần thất sủng, những linh cảm của khoa học và thi ca, đã tàn hơi chưa hỡi những ngẫu nhiên tài sắc, hay là vẫn cứ thốt lên những tiếng cười làm vang động những dòng suối đang chảy trên rừng, làm lạc lối lũ chim di trú mới về đậu đất phương nam, và làm thất tán những cố chấp tù đọng trong nghĩ ngợi của con người, những nối kết có thể của bụi là một cuộc tình vĩ đại, dấu vết của vĩnh hằng,

tôi và nàng đã lên núi Voi Nằm để làm cuộc tiếp nối tồn sinh, sức mạnh của nối kết nào, tôi không biết, hay là ái lức của vũ trụ, tôi cũng không biết, hay là nguyên nhân của tạo tác âm thầm tác động tôi và nàng, tôi hoàn toàn không biết gì cả, chỉ biết là tôi và nàng lên núi Voi Nằm, hoàn toàn yên tĩnh, không còn nghe tiếng chim kêu, không còn nghe tiếng suối chảy, rừng cây lắng đọng càn khôn, sao im vắng quá vậy anh, nàng hỏi, tôi nói là do nghĩ ngợi của tôi và em, tôi nói thế giới là những ý nghĩ của tôi và em, tôi nói theo một nhà hiền triết ở phía mặt trời lặn mà tôi không còn nhớ tên, ngày thứ nhất là sự yên tĩnh, để lấy sức cho cuộc tiếp nối tồn sinh, mặt trời lên, núi Voi Nằm ngập trong nguồn sáng vô tận, nàng nhìn lên bầu trời trên đầu kêu rộng lớn quá, tôi nói bầu trời rộng lớn ở trên đầu là do tôi và em nghĩ ra, tôi nói thế giới là nghĩ ngợi của tôi và em, tôi lại lập lại lời nhà hiền triết, ngày thứ hai là ánh sáng, chỉ hai ngày, cho hợp với qui luật sáng/tối, nóng/lạnh, còn/mất…ngày thứ hai là sự hổ trợ của ánh sáng, cuối ngày thứ hai tôi và nàng làm công việc tiếp nối tồn sinh, lúc lũ chim áo xanh hát vang lừng thì tôi và nàng vừa làm xong việc ái ân, các bạn cứ tìn chắc rằng tôi và nàng chẳng là gì cả đối với mặt đất này, bài hát của lũ chim áo xanh được chuyển dịch thành tiếng người: trên chiếc giường trời trống trải / tôi và em làm ra niềm hạnh phúc và thống khổ / chảy đi một định mệnh / có hình thù những giọt nước mắt ,    

        

21.

mùa đông, đám người lạ tràn vào thành phố, tôi đem giấu nàng dưới những cơn mưa, em hãy tạm ở đó chờ cho đến lúc bọn họ ra đi, tôi nói, nhưng như thể một cuộc lấn chiếm qui mô được hợp thức hóa một cách mặc định trên các phương diện xã hội học, sử học, triết học, kinh tế chính trị học, và ngay cả trên các phương diện mang tính hiện đại mới mẻ, các phương diện điều khiển học, tự do áp bức học, sự có mặt của đám người lạ nơi thành phố tôi đang sống như một sự kiện lịch sử đã rồi, thành phố như cứ rung lên vì sự gia tăng đột ngột lượng người và xe cộ, những đòan xe đầy ắp người và vật dụng tiến vào thành phố, ngang nhiên, thông suốt, có nghĩa không gặp  bất cứ trở ngại nào, như thể đấy là những hành động sau những ký kết, hay cam kết, có tính chất lịch sử chính trị nào đó, để vào thành phố tôi đang sống, đám người lạ mang theo tất cả những gì bọn họ đã gầy dựng được trong cuộc đời mình, vợ chồng, con cái, tiền bạc, chức tước, áo quần, giày dép, những cảm xúc, và cả những thế giới quan, tôi dòm thử vào tòa thị chính, nơi dành cho những người làm công việc cai quản thành phố, không còn thấy những gương mặt quen thuộc, chỉ toàn người lạ, tôi đội mưa tới chỗ nàng, thành phố sắp có biến động lớn, tôi nói, em cũng đang linh cảm như thế, nàng nói, những cơn mưa đông tiếp tục đổ xuống thành phố xóa hết các thứ dấu vết xe cộ của đám người lạ đã để lại trên các cửa ngõ vào thành phố, những cơn mưa có vẻ như đang muốn đánh đố tôi với nàng rằng đằng sau vẻ lặng lẽ có vẻ vô tư không chắc chắn mấy của đám người lạ ấy là những gì, một sáng mưa tầm tã, từ chỗ nàng quay về, tôi đã gặp người đàn ông trước đó đã được dân thành phố gọi là con người của thời cuộc, bỡi cứ xem cách đi đứng nói năng của ông là người ta có thể đoán biết sắp xảy ra điều gì, một biến cố chính trị, một sự cố kinh tế, nếu không, cũng là một câu chuyện chính trường đặc biệt nào đó, sau bao nhiêu năm bặt dạng, bỗng sáng hôm ấy người ta trông thấy ông xuất hiện giữa thành phố, lần này là dịp may hiếm có của lịch sử, ông dừng lại trước tôi và mấy người nữa, nói, cái cách phát ngôn ngắn gọn, hàm xúc và đầy ẩn ý, rồi liền bỏ đi như thế khiến tôi cảm thấy rất khó khăn trong suy đoán, và ngay sáng ngày hôm sau tôi lại nhìn thấy ông trên chiếc xe sơn màu nhà binh đang chạy chầm chậm trên đường phố, nơi thùng xe ba bến bốn bề đều bằng chấn song sắt, rõ ràng là ông ấy với nhiều người khác nữa, đều mặc đồng phục màu xám nhà binh như màu chiếc xe, cùng ngồi trên hai hàng băng kê hai bên thùng xe, tôi có lập tức nghĩ đến trường hợp các phạm nhân, nhưng cũng lập tức xua tan ý nghĩ ấy, vì thật vô lý và cũng thật khủng khiếp làm sao khi nghĩ ông là phạm nhân, chuyện con người được mệnh danh là người của thời cuộc chợt bỏ thành phố ra đi rồi chợt quay về rồi lại chợt ra đi một cách bí ẩn giống như một thứ biến cố để trêu cợt nghĩ ngợi kẻ khác, trí tuệ tôi mách bảo rằng có điều gì đó thật bất thường, nếu không nói là khủng khiếp, đang xảy ra trong thành phố, những ngày ấy tôi sống trong thứ ý nghĩa rằng con người tồn tại như một hữu thể biệt lập trong các cung bậc buồn, vui, lo âu, sợ hãi, giữa mớ hỗn độn của máu xương, hoa gấm, thù hận, tôi cũng chẳng biết sự có mặt của đám người lạ trong thành phố là dịp may hiếm có của lịch sử, như cách nói của con người được mệnh danh là người của thời cuộc, hay là ngược lại, một ngày khác nữa lại diễn ra như một ghi chú quan trọng nữa trong nhận thức của tôi, sau những ngày mưa dầm, trời chợt tạnh ráo, mặt trời lên tỏa nắng rực rỡ như đang đánh thức mọi kiểu tư duy của các loài, cây xà cừ trước nhà ông cụ kế bên nhà tôi tỏa bóng mát gần kín khoảng đường phố trước nhà, sự xuất hiện của ông cụ sáng ấy cũng thật bất thường, tôi thấy ông mang chiếc vò đất nung đặt dưới bóng cây xà cừ  rồi cẩn trọng vốc từng vốc bóng mát bỏ vào vò, có một cách để cho con người nhận ra mình là ai là bằng cách chạm vào những chiếc bóng, ông cụ vừa vốc bóng cây xà cừ bỏ vào vò đất nung vừa nói, là ông đang trò chuyện với người hàng xóm là tôi, nhưng đây chỉ là bóng của một cây cổ thụ mà bác, tôi nói, cái bóng còn thực hơn cả cái tạo ra cái bóng, anh không nghe đã có lệnh của tòa thị chính là sẽ thay hết nhựa đường phố, thay hết tên các đường phố, thay hết các cây cổ thụ trước mặt các nhà trong thành phố, các thứ đó cũ rồi, thay xong các thứ đó là người ta thay máu người thành phố nữa đấy, cho nên phải để lại một chút gì đấy của những người đi trước cho những người đến sau, lời của ông cụ, sau đó, trong một giấc mơ của tôi, diễn ra ngay giữa ban ngày, lại trở thành tín hiệu của suy tàn, ở trong mơ tôi thấy người ta khai quật thành phố tôi đang sống, một di chỉ khảo cổ học, những lớp than bùn đã được bốc lên làm lộ ra một quá khứ sầm uất, phong nhiêu, bí ẩn, những con đường phố lở lói với những cành nhánh rễ lá của những cây cổ thụ bị đốn ngã, những văn bản bằng giấy với chi chit mẫu tự la tinh, những chiếc vò đất nung chứa đầy các thứ âm vang, những xương cốt con người và súc vật… nhà khảo cổ  chỉ huy cuộc khai quật giải thích với tôi rằng thành phố bị vùi lấp cách nay không lâu bỡi tác động của biển và sự sai lầm của con người, có thứ đã hóa thạch, có thứ vẫn còn nguyên như cũ, khi ngang qua quảng trường thành phố nghe có nhiều tiếng gào khóc tôi định hỏi nhà khảo cổ như thế là thế nào, nhưng tôi đã ra khỏi giấc mơ, trời lại đổ mưa trở lại, gió rất lớn, nhưng mồ hôi tôi cứ toát ra ướt đầm áo, nơi tôi phải đến trước nhất là nơi có tiếng gào khóc trong mơ, tôi quyết định, và đội mưa chạy đến quảng trường thành phố, người ta đang xử án ở dưới mưa, có rất nhiều người đang bị xử bắn, máu linh láng trên quảng trường thành phố, như thế là tôi phải đưa nàng đi thật xa, tôi nghĩ, và chạy như điên đến chỗ tôi đã giấu nàng, tôi đã cẩn thận giấu nàng dưới những lớp lá rụng trong một khu nhà vườn không còn người ở nhưng bốn phía đều có hàng rào bằng gạch, chúng ta phải rời thành phố ngay bây giờ, tôi thì thầm, và bới tung lớp lá rụng tôi đã cẩn thận phủ lên người nàng, tôi đã  bới tung hết thảy những lớp lá rụng ở trong vườn nhưng vẫn không thấy nàng đâu, người con gái tôi đã góp nhặt được trong những khoảnh đời kỳ diệu và trong hết thảy các sách vở văn chương cao quí không còn nữa

 

22.

hay là nàng đã hóa thân vào câu chuyện ấy, với tôi, nàng là tất cả của sự lãng mạn, của tất cả trinh khiết, của tất cả khao khát tràn ngập, một quá khứ phồn thực âm thầm chảy giữa tồn sinh,

dòng chảy phát xuất từ chân dãy núi Tưa, dấu vết của mong muốn, tạo tác đã lỡ mong muốn về một dòng sông, con sông vẫn phơi lòng cát sỏi giữa cuộc tắm gội của thời gian, thỉnh thoảng mới nhìn thấy, sau những cơn mưa xối xả, hay sau một đợt lũ mùa đông, một dòng chảy cạn hối hả tuôn về phía cánh đồng hạ nguồn, và sau đó, lâu lắm cũng chỉ năm ba hôm, cát sỏi lòng sông lại tiếp tục bày ra giữa cuộc càn khôn, người ta cũng chẳng biết gọi thế nào, về một dòng sông, nhưng cũng chưa phải là dòng sông, bắt đầu từ dãy núi Tưa, nên cứ gọi là sông Tưa,

nàng là tất cả của sự chờ đợi, để dâng hiến, nàng là niềm khao khát dâng hiến, sự khao khát tột cùng,

tôi vẫn ra bờ con sông Tưa đợi nàng, bây giờ là tôi đợi nàng, tôi vẫn đợi nàng như một cách đào thoát khỏi trùng vây của u buồn,

đọc sách thấy miền đất cằn phía nam tỉnh, nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, là thuộc vùng địa chất hình thành vào thời tạo sơn Himalaya, cứ thử tưởng tượng: sự đun đẩy của vỏ địa cầu, không ngẫu nhiên, cũng không tất nhiên, làm dịch chuyển đất đai về một phía có độ cao hơn hẳn bốn phía, sự làm ra núi non, núi Tưa là cái tên mãi những triệu năm về sau con người đã gán cho một tư thế đất đai, núi là có thực, nhưng con sông bắt đầu từ đây lại là sự lỡ tay của tự nhiên, thì cứ gọi là sự giả định về một dòng sông, dòng sông cùng tên với núi, sông Tưa,

người đời gọi là nàng Khang, hay em Khang, nàng Khang vốn sống thầm lặng, nhưng đôi mắt có vẻ u buồn lại là cửa ngõ mở ra niềm khao khát tột cùng, khao khát một tình yêu ở bên ngoài mọi biến đổi của tạo tác, giữa thứ quá khứ dày đặc biến cố bỗng hiện ra một người con gái, cuộc gặp cũng quá mong manh, bỡi những gì biết được về nàng, tên tuổi ấy, hình dáng ấy, tựa sự thoảng qua của ngọn gió ít oi, một cuộc sống thầm lặng, một ánh mắt u buồn, một khao khát tình yêu vĩnh cửu, vào những năm đầu thế kỷ mười chín, một nhà khảo cổ học người Pháp đã đặt chân lên vùng núi Tưa và đã gặp được nàng Khang nơi một phiến đất nung đào được ở bờ con sông Tưa, cũng chỉ là nghe kể lại,

tôi vẫn ra bờ con sông Tưa nằm dài trên những vết tích cổ xưa như những khoảnh khắc đào thoát khỏi thứ không khí u ám của thời đại, như có sự cắt ngang dòng chảy tài hoa cái thế, bên trong miền đất đạm bạc cơm áo dưới chân dãy núi Tưa, nơi làng tôi, bỗng nổi lên những tay chúa đất lòng tham không tả nổi, chúng là loài sâu mọt đương đại, để tiêu phá cho hết niềm vui cướp bóc được từ cuộc trần thế, chúng đã tìm đến kẻ chợ, thâu đêm suốt sáng vùi đầu nơi vầng ngực căng đầy của các cô gái luôn đổ thừa sự sa cơ của mình cho thời thế, quả là có sự đứt đoạn truyền thống vẻ vang của một miền đất, thì chỉ mỗi nhà giảng pháp, ông Năm Sư, cũng đủ khiến cho thế giới đương đại kinh ngạc, ông Năm Sư là vị tổ thứ mười dòng họ nhà tôi, thì cũng chỉ nghe nói vậy, ông giảng về các pháp chế ngự sông núi, chế ngự mưa nắng, chế ngự ma quỉ, để cho anh ngửa nón làm thuyền đưa em sang sông, sau này, đám hậu thế lãng mạng bắt chước ông, nói với nhau lúc yêu đương, còn thuở ấy, ông tổ thứ mười nhà tôi, qua sông Tưa thì ngửa nón làm thuyền, muốn bắt ma quỉ thì chỉ việc phùng mang trợn mắt, cho đã tức giận, rồi gọi đích danh lũ ma, cũng chỉ là nghe kể lại, tôi vẫn ra bờ sông Tưa nằm dài trên những dấu vết cổ xưa, để mà tiếc nuối,

nhà khảo cổ học người Pháp lại trở lại mảnh đất cằn dưới chân núi Tưa, tôi cứ thấy người con gái ấy trong tâm tưởng, ông nói với người làng tôi, và lần này thì tìm thấy nơi bờ con sông Tưa một mảnh hồn kỳ dị, em vẫn chờ người em yêu, chờ bao nhiêu năm tháng, con chim nhạn kêu buồn nơi bầu trời trống trải, con mắt gần rớm máu vẫn chưa tìm thấy người để em sinh cho những đứa con sức vóc cho đời, nhà khảo cổ đa cảm cặm cụi tìm cách đọc một mảnh hồn sóng gió, và quả quyết rằng văn bản đất nung này với văn bản đất nung khai quật được những năm trước là cùng một chủ nhân: nàng Khang, từ đó, người con gái người đời vẫn tưởng tượng là đẹp tuyệt trần, đã trở thành biểu tượng của sự lãng mạn bão táp,

nàng là tất cả cho một tình yêu vĩnh hằng và sóng gió,

thế giới vẫn cứ diễn ra sự sa sút về cách thế tồn tại của con người, sự sa sút thảm khốc của thế kỷ, những nhà thiết kế chân lý vẫn đam mê tìm kiếm những con đường ở bên ngoài mặt đất cho con người thời đại, những nhà thiết kế tâm hồn vẫn ngày đêm lo thiết lập những phương án chấn hưng lòng trắc ẩn, nhưng con người của thời đại hôm nay có vẻ như vẫn muốn hận thù nhau, có vẻ như chẳng còn muốn tin nhau,

đêm tháng tư, tôi ra bờ con sông Tưa nằm dài trên những vết tích cổ xưa,   trăng non đầu tháng buồn bã nơi lưng trời, tôi nhìn trời   nhìn trăng, và biết là mình đang nghĩ đến người con gái có sức lan tỏa sự lãng mạn bão táp, tôi nghĩ đến nàng Khang, và cũng không thể nói là tôi nằm mơ, ông đang chờ em, nàng hỏi, tôi nói là tôi đang chờ nàng,   và nghe như người tôi sắp tan thành   cát sỏi, nàng còn đẹp hơn những gì tôi từng tưởng tượng, em sẽ sinh cho ông những đứa con xinh đẹp như em từng ước mơ, nàng nói, và nằm xuống bên tôi, như tất cả sự lãng mạn của thế giới đã thuộc hết về tôi, thuộc về cái giây phút như tôi đã bước ra khỏi cuộc trần thế đỏ đen, tôi biết sau đó là cuộc ái ân viễn tưởng lớn nhất trong mọi viễn tưởng của con người, tôi biết là tôi đang ôm chặt lấy nàng Khang, ôm chặt lấy người con gái tôi từng mơ tưởng như một cách đào thoát, trong khoảnh khắc, khỏi cảnh u ám của thời đại, nhưng tôi cũng biết tất cả những chuyện đó chỉ là nội dung của một trang viết cổ xưa bị vùi lấp đâu đó,

23.

với tôi, nàng là một thứ dấu vết kiêu sa, kỳ bí, lãng đãng giữa chốn ký ức nghìn trùng, nằm bên ngoài mọi định mức,về dáng hình, về lời, về những biểu hiện cảm xúc, và về mức độ thâm sâu, một cách thâm nhập như buổi chiều hôm bỗng có tiếng kêu sương của con chim vạc lạc bầy, hay nửa khuya thức giấc bỗng thấy thế giới này đáng yêu hơn, tôi yêu nàng như cách thức kẻ lãng tử luôn cảm thấy cuộc hành trình của mình như một cuộc tình [chung thủy và dài lâu] tôi với nàng là rất đỗi xa vắng, và rất đỗi rất gần trong cảm thức, cái cách thức tôi yêu nàng như cách thức những giọt sương buổi sớm luôn mang lại sức triển nở cho lá, cho cây, hay như buổi chiều hôm bỗng nghĩ đến định mệnh của đám sao trời vừa mới được sinh ra, buổi trưa nàng bỗng gửi đến tôi bài viết về những con đường nàng đang trải qua, những con chữ có vẻ như muốn thừa kế cách thức gợi ý gợi hình của đám chữ hình nêm cổ sơ, em đang bước trên những nẻo đường luôn có sự rình rập của những kẻ ngông cuồng [của thế kỷ] một đám người đang phung phí hơi thở, phung phí chân tay [làm như chẳng phải là của bọn họ] phung phí ngôn ngữ, cái cách phung phí ngôn ngữ của bọn họ là miệt thị cha ông, những người đã tốn bao nhiêu trí não mới nghĩ ra được hệ thống lời [vô cùng thiêng liêng và phong phú] để cho ngày nay bọn họ đem ra sử dụng [bừa bãi]trong các cuộc ăn chơi đàng điếm, thế là em bắt đầu nhìn ra cái thế giới bọn họ đang cố công gầy dựng, hằng đêm là bọn họ tụ tập dưới trời   [suốt sáng] để tự ca ngợi mình, hay ca ngợi nhau, hay ca ngợi những thứ chẳng ra chi nhưng bọn họ cố bằng cách sử dụng những ngôn ngữ cường điệu và đầy âm thanh để biến những thứ ấy thành những thứ vĩ đại, hằng ngày là bọn họ chẳng chịu để yên cho người ta làm lụng, cái cách bọn họ ra rả [một cách hăng tiết và dai dẳng nếu không nói là đáng ghét] trong những lập thuyết, hay diễn thuyết, hay du thuyết… là làm mòn mỏi trí tuệ nhân gian và ô nhiễm trầm trọng nền nhân văn   thế giới, cứ nghĩ đến cái thế giới họ đang muốn tạo dựng là em cảm thấy xót xa như ai cầm dao cắt bớt hiểu biết của mình, những con chữ có vẻ như muốn xác tín với tôi rằng những điều nàng viết cho tôi là quá thật trong cuộc sống đương đại, buổi trưa tôi bỗng đọc những thổ lộ bấy lâu nàng vẫn dấu kỹ, những gì nàng trải qua có vẻ là định mệnh, số mệnh, hay chỉ là sự hài hước của tồn tại [sự hài hước lẽ ra không nên có] hay đấy chỉ là thứ kiểu cách kệch cởm của thời đại, tôi nghe có tiếng con bò nghé lạc mẹ đang ù be ở phía cuối làng, tiếng khóc của con vật non nghe buồn như tiếng ngâm nga của những người hát rong thời cổ đại, và dường như là người làng tôi thì đang rất buồn vì những kế sách ngu xuẩn trong việc gieo trồng, buổi trưa, làng có vẻ như chẳng còn ai còn sống, nàng là một thứ dấu vết kiêu sa luôn đánh thức những năng lực thầm kín trong tôi, dường như đang có tiếng kêu cứu [thất thanh] của những kẻ thất bại trong cuộc chiếm đoạt thế giới,

24.

giờ thì cuộc tình ấy giống như thứ vết khắc của thời gian, thứ vết khắc luôn tác động cuộc sống tình cảm của tôi, nó là triết học của trí nhớ, và những hư cấu lãng đãng khói sương cứ việc hiện về giữa bề bộn cuộc sống,

tôi lại thấy tôi gặp lại nàng nơi núi rừng ấy, sao lại là đêm tháng chạp nhỉ, đêm tháng chạp, gió bấc, và mùi cây lá như còn chứa cả hương thơm nguyên sơ, khi tôi tới chỗ phát tích con sông K. thì trăng thượng đã khuất, đêm như có vẻ tích tụ thêm bí ẩn của thời gian, nàng từ con nước đầu nguồn bước ra, rũ nhẹ áo quần cho bớt sũng ướt, những câu chuyện diễn ra vào những lúc như thế là thường hay mang dáng vẻ cổ xưa, nếu không nói là huyễn hoặc,

những nghìn năm đằng đẵng trôi qua trí tưởng tượng của chúng ta,có khi được coi như một thứ hổ lốn tháng năm phiền muộn chồng chất lên nhau, em, vật thể nhỏ nhoi như còn sót lại giữa cuộc tuyển chọn và thanh trừng không nương tay của tạo tác, cuộc vận động của hiện tồn là luôn mang dấu ấn của một định mệnh vừa nghiêm khắc một cách tàn nhẫn, vừa đùa cợt   như một trò đùa, quê hương xứ sở chúng ta như nơi tập dợt các phương cách trị nước, các triều đại cứ trôi đi theo thứ nhịp điệu vừa khôi hải vừa bi thảm: khi sáng sủa, khi u tối lầm than, cứ thế, tạo tác cứ điềm nhiên   bước trên những thao thức của con người,  

nàng nói,

và rưng rưng nước mắt,

tôi múc những khoảnh khắc yên tĩnh của rừng núi rưới lên nghĩ ngợi của nàng, rồi giả làm kẻ hạnh phúc dắt nàng đi dọc theo bờ con sông K., tiếng nước đầu nguồn bắt đầu tác động lên cách tiếp cận thế giới của chúng tôi, đêm như đang xúc động trước một   cuộc tình trắc trở, tôi buột kêu lên,

nàng nắm lấy tay tôi và nói là mình đã nhìn thấy được vẻ vĩnh cửu, thấy rất rõ,

kể từ hôm con người nhận ra gương mặt biến động của thời gian, thì đây là phút giây em thực sự bước vào cõi vĩnh hằng của ngàn năm thao thức,

 

nàng nói, và buông tay tôi, nhảy xuống nước trở lại,

tôi có cảm tưởng như toàn thể núi sông lặng ngắt,
tồn tại lại hoàn nguyên như những phút giây trước đó…

nhưng dẫu gì thì một chút hư cấu lãng đãng khói sương vẫn còn hơn để cho vật thể nhỏ nhoi này kéo lê qua suốt cuộc phù vân tẻ nhạt,

25.

và vào cái đêm mùa thu chết lịm những ký ức về những tháng năm chưa kịp xưa cũ ấy, nàng đã đến gõ cửa nhà tôi, ở làng tôi, vào những đêm thu buồn như thế, con giun con dế nơi bờ rào cũng muốn nói lên lời tâm sự, mà đang có ai hát trên đồng làng như là tiếng hát của thằng bạn nối khố của tôi, hay lại đang vỡ vụn một vùng ký ức, từng ngày thằng bạn nối khố của tôi   đi nhặt nhạnh bi thương và lạc lõng, em đã đến gõ cửa nhà tôi đúng vào lúc đang vỡ vụn những ký ức bi thương, cũng vào một đêm mùa thu, lũ dế gọi mùa khản cổ nơi bờ rào, thằng bạn nối khố của tôi đã hát về những thứ ở phía bên kia sự vĩnh hằng, có tên là niềm bi quan, cũng vào một đêm mùa thu buồn như thế, thằng bạn nối khố của tôi đã bắt đầu hát khúc tự tình của loài giống, hát giữa đồng làng… ngàn năm   mây bay qua dãy núi trước làng. cây lúa chưa kịp trỗ bông đã nghe thấy tiếng gào thét của đất, đêm ấy thằng bạn nối khố của tôi đã rút ruột ra mà hát, và ngã chết trên đồng làng, em, mà hình như   còn có ai đang la hét ầm ĩ trên những cây cầu bắc qua sự cần lao của loài giống, em đã đến gõ cửa nhà tôi vào lúc dường như có tiếng la hét ầm ĩ ở trên những cây cầu bắc qua sự cần lao, ta sẽ tặng cho lũ các ngươi áo mặc, giày dép, và sự tự do, những người có quyền thế đang la hét ầm ĩ trên những cây cầu bắc qua sự cần lao, những kẻ có những chiếc xe ngựa kéo bằng những con ngựa có thứ mồ hôi đỏ, hãn huyết mã đương đại, tên của lũ ngựa , nhưng dường như lũ ngựa là đang đứng về phía những người đang cư ngụ ở bên dưới những cây cầu bắc qua sự cần lao, những con hãn huyết mã đương đại là cứ chòm lên trong thứ yên cương làm bằng thứ kim loại chế tạo từ những mỏ quặng được đào lên vào một ngày mùa xuân có tiếng la hoảng của lũ ong hút mật, em đến gõ cửa nhà tôi đúng vào lúc có tiếng la hoảng của đám người cư ngụ ở bên dưới những cây cầu bắc qua sự cần lao, là em đã gõ cửa nhà tôi, nhưng tôi thì tưởng là lũ người mặt đen, những thằng mặt đen đến từ chốn tranh nhau quyền thế, nhưng lại là tiếng gõ cửa rất nhẹ nhàng   của em, nên tôi lại cứ tưởng là oan hổn của lũ người mặt xanh ngu ngốc đã chết tự mấy chục năm về trước, em đã nhẹ nhàng gõ lên cánh cửa nhà tôi, vào cái đêm mùa thu chết lịm những ký ức về những tháng năm chưa kịp xưa cũ, ở trong nhà, khi đã điềm tĩnh lại, tôi biết là tiếng gõ cửa của em, vào cái đêm mùa thu chết lịm những ký ức về những tháng năm chưa kịp xưa cũ, tôi đã nghe bàn tay em chạm lên khung cửa nhà tôi, không nhìn thấy em, không nghe thấy tiếng em, nhưng cách nhẹ nhàng gõ lên khung cửa, tôi lập tức nhận ra là em đã đến, kể từ hôm em nằm xuống cùng tôi trong áng văn chương thế kỷ để cùng lặng im   đi vào giấc ngủ miên viễn, thì tôi hiểu tình yêu ấy đã xảy rất lâu, rất lâu, tự những nghìn năm trước, chưa nhìn thấy em, chưa nghe tiếng em, nhưng là tôi đã quen với những lời chân tình rút ruột của em, những lời chân tình như thể là nghe theo thứ tiếng gọi thiết tha từ một miền nhân sinh kỳ dị, những lời thiết tha như lẽ sống còn của loài giống, khi biết chắc là em đã đến, tôi cứ muốn gào lên, rằng tôi đã yêu em bằng cả sức mạnh của thanh khiết, một ngàn lần thanh khiết, bỡi tình yêu của tôi và em chẳng còn là thứ của cải riêng tư, ích kỷ, bỡi đấy là cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên, và định mệnh, tôi cứ muốn gào lên thế, nhưng em đã không cho tôi nói, đặt ngón tay nhỏ nhắn của em lên môi tôi, em cứ ra hiệu cho tôi đừng nói, ngôn ngữ con người chẳng thễ diễn nổi tình yêu định mệnh ấy, tôi biết, nhưng cuối cùng cũng chẳng thể cầm lòng được, đừng đi, em, cuối cùng thì tôi cũng nói ra được lời ấy,

26.

rồi tôi lại đưa nàng lên rừng, lọt thỏm giữa bầu trời và rừng cây là sự đậm đặc của các vật thể, gió, tiếng suối, tiếng lá cựa mình, tiếng lặng lẽ của đá, và cuối cùng là bóng đêm và những nghĩ ngợi của tôi và nghĩ ngợi của nàng, lên rừng, đấy là một trong những thể nghiệm của cuộc tình chúng tôi, những chuyến đi, những lần thể nghiệm, tìm kiếm lời giải đáp cho câu hỏi vậy thì tình yêu nó là gì, vợ chồng con cái người chủ nhà nằm ở một góc nhà sàn, bên sau tấm màn bằng vải đã cũ, tôi và nàng nằm ở một góc khác của nhà sàn bên bếp lửa đang cháy, nằm chiếu, không mắc mùng, không muỗi đốt, những cái thú ngủ nhà sàn ở trên rừng, cái thú khác là vẫn còn lưu giữ hình ảnh của thứ cộng đồng rất người thời tiền sử, đang là mùa đông trên rừng nhưng vẫn chẳng thấy lạnh anh nhỉ, nàng nói, tôi nói sự hoàn hảo luôn là thuộc tính của những cuộc tình, tôi nói và nhìn thấy ánh lửa bếp như đang đậm đặc lại thành những hình thù của ký ức, phức hợp và đơn điệu, như những tổ hợp của tồn sinh đang chảy giữa cuộc tiến hóa, bóng mây nơi đỉnh núi, và sự tàn rữa giữa hư vô, cuộc tình của chúng tôi là chuỗi ký ức dày đặc những hình ảnh của dịch chuyển, chúng tôi đi, và vào lúc gần trưa thì nhìn thấy ngôi làng miền ngược thấp thoáng phía bên kia con suối, tôi cõng nàng lội qua suối rừng tháng chạp, nước cắt chân, bao giờ cũng thế, tôi và nàng vẫn cứ nương tựa nhau qua cõi tạm trần gian, một ngày trong những tháng ngày dịch chuyển chúng tôi lại đứng giữa ngôi làng miền ngược lọt thỏm giữa núi non trùng điệp, ký ức bầy đàn như vẫn còn nguyên trong cung cách cư xử của những con người có vẻ như đang sống biệt lập với văn minh đương đại, người làng cho chúng tôi ăn cơm gạo trắng, uống giải khát bằng các thứ nước chế tạo ở các nhà máy, nhưng đêm đến thì tôi và nàng lại cùng với những người trong nhà của chủ nhà cùng lăn ra ngủ trên sàn nhà, cứ nghe vang lên trong lòng thứ tình cảm tiền sử, sợ khuấy động giấc ngủ của những người nhà của chủ nhà, tôi và nàng cứ nằm lặng im nghĩ ngợi, có lẽ nàng cũng như tôi, là đang nghĩ   về cuộc thể nghiệm ở trên rừng, vậy thì tình yêu nó là gì nhỉ, tôi lặng lẽ gác tay lên người nàng, và nàng lặng lẽ cầm lấy   tay tôi, đêm như thể đang chiêm ngắm cuộc tình của chúng tôi, thì mới lúc chiều chúng tôi lại trở lại con suối đã vượt qua lúc trưa để lắng nghe tiếng nước, núi rừng cũng có vẻ như đang chiêm ngắm chúng tôi, tôi hôn nàng giữa chiều hôm giá buốt, và lại giắt nhau đi trên bờ con suối đá lởm chởm dưới chân như thể sắp đọc được điều bí ẩn nào đấy đang tồn tại trong trời đất, vào lúc quá nửa đêm, tôi lại thử gác tay lên người nàng, thì không thấy nàng đâu, tôi vội vã ngồi dậy khêu thêm lửa bếp, ngọn lửa chợt làm bùng lên thứ hình ảnh giống như những ngôi sao đang rụng giữa bầu trời đêm,

 

27.

thế giới rộng lớn thế em không thể ở mãi một nơi, nàng từng nói với tôi thế, cứ tưởng là nàng chỉ nói thế, và chẳng đời nào ra đi, nhưng nàng đã ra đi thật… lảo đảo một áng mây chiều/cứ cô độc giữa trần gian đông nghịt, tôi thực sự bị lạc vào những câu thơ của nàng, tôi đến nhà trọ của nàng, hoàn toàn vắng bóng, chỉ còn nhìn thấy mỗi  mẫu giấy nhỏ với những câu thơ vô địn… lảo đảo một áng mây chiều, em đã bỏ tôi mà đi vào một buổi chiều, nhưng là chiều nào, tôi đã thực sự bị lạc vào những câu thơ  của nàng, từ thành phố này nàng ra đi, tôi chỉ biết chắc mỗi điều đó, từ thành phố này chúng tôi đã gặp nhau, yêu nhau, và luôn quấn quít bên nhau, cũng chỉ năm ba hôm trước đó nàng nói với tôi là nàng sẽ ra đi, và đó cũng chỉ là do, bỗng nàng có sự thay đổi trong cách nhìn thế giới của mình, dịch chuyển là điều cần thiết đối với em sao, tôi chỉ còn biết là phải đi tìm nàng, cứ nhắm trần gian đông nghịt mà đi, nhưng có phải là em muốn đi tìm một khúc hát khác…gió mây luôn vẫy gọi trăng sao nhưng vẫn cứ muốn quay về chốn cũ, những bài hát rong cổ đại kiểu như thế thì tôi biết chắc là nàng không thích, sự cường điệu đôi khi làm mất đi sự thành thực của thi ca, nàng từng nói với tôi, vậy thì em đã đi đâu, tôi chẳng có ý định là sẽ tìm nàng ở đâu, nhưng đã thấy mình đứng ngay trước nhà khiêu vũ của thành phố, “các bạn hãy làm một bước nhảy thật đẹp vào chốn kỳ diệu của thế giới”, lời kêu gọi nhảy ấy có thể có sức tác động lớn hơn những lời kêu gọi hòa bình, hay kêu gọi chấm dứt chiến tranh đang diễn ra nhiều nơi trên thế giới, bỡi tấm áp phít to tướng mô tả về nhảy bằng cả hình ảnh lẫn ngôn từ  đặt ở mặt tiền nhà khiêu vũ ngày đêm vẫn đập vào nghĩ ngợi của người dân thành phố, cũng có thể sự thèm muốn ôm nhau nhảy bắt đầu từ tấm áp phít này, vào giờ này ai đang làm ở các nhà máy ai đang đi cày và ai đang nhảy nhỉ, tôi nghĩ ngợi, thứ âm nhạc chết tiệt từ trong sàn nhảy chảy ra có xu hướng làm tôi cứ thấy tức giận, có vẻ quyết liệt, vội vã và hỗn độn, thứ âm thanh  đầy sức dồn nén ấy từ bên trong ngôi nhà tiếp tục chảy ra, tôi cứ đứng chết lặng trong thứ tâm trạng bỗng dưng trống rổng, bỗng dưng chán chường,  nhưng là em đã đi đâu vậy em, tôi rời thành phố đi tìm nàng trong tình cảnh một kẻ mất phương hướng, có phải em biết khi rời khỏi nơi đây là sẽ bắt đầu một cuộc sống cô độc, và giờ đây lại đến lượt tôi cô độc, chiều hôm ấy tôi đứng một mình nơi bờ con sông tôi chưa từng biết, có những dòng sông cả đời ta chưa từng đến, rồi ta lại đến để ngắm nhìn con nước trên sông trong vẻ xa lạ được dấu kỹ đằng sau những niềm bí ấn, thế giới là niềm bí ẩn đầy sức quyến rủ…tôi lại đợi em vào một chiều có áng mây trôi trên đầu mình, tôi thì đợi em, còn những người đàn ông và đàn bà ấy thì đợi lời phán quyết của quan tòa nơi pháp đình được thiết lập ở ngay ngôi làng bên sông, dường người ta sắp treo cổ ai đó, tôi loáng thoáng nghe thấy những lời buộc tội của quan tòa  vang lên từ chiếc loa phóng thanh được mắc ở một nơi cao nào đó trong làng, tôi chẳng hứng thú chi để nghe thấy những chuyện buồn như thế, nhưng dường như sự phán quyết đã xong, từ trong làng, đám người dự nghe phiên tòa đang túa ra, thấy có những người đang khóc, và có những người đang cười, tôi không rõ hết về bọn họ, nhưng có lẽ, chắc hẳn là có người bị kết án phải chết, và những người còn lại thì có kẻ khóc, có kẻ cười, sự chó má của cuộc sống nó nhào trộn, cào cấu, chì chiết con người đến thế hay sao, tôi cứ muốn sang sông, nhưng chẳng thấy có bến nước nào hay có con đò nào trên sông, em đang ở đâu vậy em, không có một tin tức nào về nàng, hoàn toàn không có, tôi lại đứng chết lặng dưới bầu trời chiều lặng lẽ.

 

28.

tôi nhớ là những năm tháng ấy tôi vẫn lẩn quất nơi ngôi làng nhỏ bé luôn lặng lẽ chờ đợi một điều gì đó như là sự biến hóa giữa sỏi đá và thi ca, hiện thực ở đây là được nuôi dưỡng bằng mộng mị, và tôi có đến những nơi chốn ấy thật, hay là giả sử có đến những nơi chốn ấy thật, thì cũng chỉ là để củng cố thêm sự chờ đợi,

đứng nơi bờ con sông ấy, tôi một mình một ngựa, bơ vơ giữa cõi người đa phương rối rắm, người ta sắp treo cổ một vị nguyên thủ của đất nước, ba nô áp phích treo đầy các ngả đường trên mặt đất, các vị chủ nhân các học thuyết mới như đang kiệt sức trong giai đoạn nước rút hoàn thành các học thuyết về luân lý đương đại, chữ nghĩa giấy bút giữa thời của trí tuệ cũng mệt nhoài như những gái điếm ở những thành phố hiện đại, cái vùng đất đặt sệt mùi phù sa cổ đại cuốn hút tôi vào một ngày bước ra từ ký ức mơ hồ vị anh hùng từng để lại dấu tích trên tấm bản đồ văn hóa của thế giới, xin chào Gilgamesh sứ giả của thời gian, tôi ngả mũ nói, Mesopotamia đang chờ các người đấy, vị anh hùng nhìn tôi nói, và thế là một mình một ngựa tôi bắt đầu cuộc rong ruổi, đứng ở bờ con sông ấy tôi có cảm thấy ân hận về quyết định nông nổi của mình, nhưng cái ý định quay trở về làng đã được bãi bỏ khi cô gái ấy bất chợt xuất hiện, hình như là ông từ một nơi rất xa mới đến, cô gái nói, tôi hỏi làm sao mà biết, cô ta bảo nhìn con ngựa tôi đang cỡi thì biết, tự thời vua Cyrus em đã trông thấy giống ngựa này, nó là loài ngựa miền viễn đông, mấy tiếng miền viễn đông thốt ra từ miệng cô gái như lời xác nhận rằng tôi không còn là khách cô độc trên thứ đất đai được nuôi dưỡng bằng cả màu mỡ lẫn cuồng nộ của những dòng sông, nhưng dường như là ông đang có điều chi phải nghĩ ngợi, cô gái chợt hỏi, vẻ ranh mãnh, tôi phải nói dối là chỉ cảm thấy hơi mệt vì đường xa và cố dấu đi những cảm thức khó tả nếu không nói là hơi rối rắm khi cùng lúc phải tiếp cận với cả những cũ kỹ nghìn năm lẫn những rực rỡ tân kỳ, bấy giờ trước mặt tôi là cô gái tóc tai quần áo như vẫn còn nguyên bụi bặm thời cổ đại vừa chen ra khỏi những người ngợm ngựa xe trên những con phố chật ních những âm thanh và mùi vị các thứ văn hóa của loài người đương đại, chỉ mỗi thứ đàn hát nhảy nhót trên các đường phố cũng đủ làm tôi rối trí chẳng biết phải chia sẻ thế nào vì chẳng biết đó là thứ âm nhạc ngợi ca cuộc sống hay ngợi ca một thứ gì đó, một học thuyết mới về loài người, một phát hiện mới về loài khỉ, hay đó là thứ cách thức bày tỏ nỗi phẫn nộ về một điều bất ưng nào đó đang cần đến sự chia sẻ, hay là ông hãy đi với em, cô gái chợt đề nghị, và lập tức trèo lên ngựa của tôi, ngồi trên lưng ngựa tôi có cảm tưởng mình là một vì vua đang làm một cuộc cách mạng làm rung chuyển thế giới cổ đại, là đang khiến cho một nữ nô lệ trở thành một nữ hoàng, em vốn là cô gái miền thượng nguồn sông Nile đã bị vua Sumer bắt đem về vương quốc của ngài, mãi đến thời vua Nebuchadnezzar của người Chaldee em vẫn còn là gái nô lệ, ngay lúc leo lên ngựa để đi với tôi, cô gái đã cho tôi biết cô ta là ai, vào mùa ấy Mesopotamia nóng lắm, từ trên bầu trời cao lồng lộng nắng mặt trời tháng tư như đang trút lửa xuống thứ mặt đất nghìn năm vẫn cứ trống trải, thời ấy thì người Hittite cũng xua quân theo con đường này, nữ hoàng yêu dấu của tôi nói, tôi thấy loáng thoáng trong ký ức sách vở của mình cái giống dân thô bạo mắt to miền cao nguyên Anatolia với những ngọn giáo bằng sắt đi tới đâu máu người chảy tới đó, là tôi đang cho ngựa bước chầm chậm về phía thượng nguồn sông Tigre, về phía quê hương của người Hittite tàn bạo, còn nữ hoàng yêu dấu của tôi thì có vẻ đang yên ổn giữa vòng tay che chở của tôi, nhưng là em định đưa tôi đi đâu đây, lẽ ra tôi phải hỏi điều ấy từ lúc cô gái đề nghị tôi hãy đi với cô ta, rồi em sẽ cho ông thấy con người là loài giống thế nào, mãi sau đó tôi mới hiểu đó là câu trả lời của cô ta, còn lúc ấy tôi chỉ thấy thích thú với cách nói năng hoạt bát của cô gái Mesopotamia, hay em chỉ là nữ nô lệ của thi ca cổ đại, tôi đã đùa nói với cô ta thế, nhưng hóa ra lại là chuyện thật, xây xong thư viện Nineveh, vua Ashurbanipal đã cho em làm người giữ sách, cô gái nói xong lời ấy thì quay lại nhìn tôi, và nói như hát,

ngươi hãy ngồi thinh lặng và đắm mình trong bóng tối hỡi con gái của dân Chaldee”,  

là em vừa nhắc đến con cháu vua Nebuchadnezzar của người Chaldee, thưa phải, có vẻ ông cũng rành về Mesopotamia, ngựa của tôi bỗng khựng lại, một quang cảnh đổ nát hiện ra nơi bờ con sông Tigre, xưa nơi này là cung điện Nineveh, cô gái nói, và những cột tháp là được mang về từ Thebes còn thợ xây là các nô lệ bắt được ở bên kim tự tháp Kheop, tôi tiếp lời, như thể để cho cô gái biết tôi cũng có biết về cung điện Nineveh, nhưng đấy là chuyện ngày xưa,   cô gái nói, còn bây giờ thì sao, tôi hỏi, và cho ngựa đi thật chậm, và mây ở đâu bỗng kéo tới bầu trời ở trên đầu, nhưng cô gái bảo không phải là mây, xương thịt con người ta khi không còn là xương thịt thì hóa thành niềm nuối tiếc hóa ra con người là giấc mơ đã mất, cô gái nói, chợt có vẻ khác thường, và tôi như bắt đầu nghe thấy hương thơm của miền đất giữa hai sông đang tỏa ra từ nàng, nhưng những nghìn năm qua là em đã mơ thấy những gì, thưa, muốn trở thành niềm lãng quên, tôi âu yếm với cả lời mình vừa thốt lẫn lời đáp lại của nàng,

nhưng những nghìn năm qua em cứ để cho xương thịt mình trôi đi giữa những ngọn lửa những con quạ tham tàn đã đốt lên nơi bờ sông Nil vào một sáng lũ cua cá trên sông bơi trối chết về phía thượng nguồn để kịp lễ hiến tế do lũ quỉ nói tiếng Semitic bày ra ở cao nguyên Nubia, những bài ca chiến thắng của bọn man rợ mang hình thù những bữa tiệc đầu người, rượu tân chủ tràn vách đá, rong rêu cuộn mình giữa cơn cuồng nộ, em rơi vào cơn mơ sa mạc, gió, những con lạc đà bị khoét mất bản ngã, lắc lư xương cốt, văn hiến đã bị hốt khỏi chốn ngàn năm, các vị thần trên các kim tự tháp chẳng thèm nói nửa câu, ở miền đất giữa hai con sông em trở thành thứ con vật vừa để thồ hàng vừa để làm trò hoan lạc với các vì vua và với đám quân sĩ của các vì vua, lịch sử cứ lần lượt rơi vào tay các vị chủ tể các miền đất giữa hai sông và các miền đất ở hai bên hai sông, các vị vua thì lần lượt tắm gội bằng cả vinh quang lẫn sỉ nhục, còn em những nghìn năm qua vẫn mặc   chiếc áo nữ nô lệ sông Nil… 

 

kìa, đã đến giờ, nàng chợt thôi nói, và hỏi tôi có nhìn thấy gì không, tôi nói là tự nãy giờ chỉ nhìn thấy những đám mây vần vũ trên đầu, nàng lại bảo không phải là mây, đã đến giờ điểm sách nên em phải đi, ông cứ chờ em ở đây, nàng nhảy xuống ngựa, căn dặn, tôi thử nhìn lên bầu trời trên đầu, qủa chẳng phải là mây, mà là những cánh tay đang thò ra như đang cố nắm bắt một thứ gì đấy, và nơi bờ sông Tigre như có rất nhiều người đang ngồi cúi gằm mặt xuống đất, tiếng của nàng, phải, là nàng đang ngồi ở trên một chiếc ghế kê lơ lửng ở trên cao,

phải chăng đây là con người đã từng làm rung chuyển mặt đất, từng làm cho các nước đảo điên, từng biến thế giới trở nên như sa mạc”,  

 

tôi đã nhớ ra, là nàng đang trích đọc Isaiah, về cái quá khứ lừng lẫy của vua Nebuchadnezzar của người Chaldee, và tôi cũng đã hiểu ra, là cho đến lúc ấy nàng vẫn là nô lệ của những vì vua đã chết,

chính là đức vua đã truyền rằng…”,

 

lại là tiếng nàng, tôi hoảng quá, toan quất ngựa chạy khi nhìn thấy đám người nơi bờ sông bỗng quằn mình giãy dụa, nhưng nàng đã kịp đến ngồi trong vòng tay tôi, ông đừng sợ, đám xương tàn của các vị chúa tể các triều đại đã mất   đang quằn quại trên niềm nuối tiếc, nàng giảng giải cho tôi hiểu trong lúc từ nơi bờ sông Tigre cứ tru lên những tràng dài ghê rợn, giờ thì em phải từ biệt ông, người nữ nô lệ sông Nill nói, đấy là tất cả những tin tức về nàng tôi biết được ở Mesopotamia, người nữ nô lệ sông Nill bảo nàng yêu tôi   vì suốt những nghìn năm qua chỉ có tôi là kẻ duy nhất nhìn thấy nơi cư ngụ của trái tim nàng, vua Cyrus đã ném em xuống sông Tigre, những nghìn năm qua em là nước của dòng sông ấy, nàng nói, cầm lấy bàn tay tôi, đặt lên đó một giọt nước sông Tigre, để lãng quên hay là để nuối tiếc, tôi hỏi, em cũng chẳng biết nữa, nàng đáp, hôn lên bàn tay tôi, và nhảy xuống sông trở lại,

giã
tháng 4.2011
tháng 4.2017